TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 66/2020/HS-PT NGÀY 24/02/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 24 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 17/2020/TLPT-HS ngày 10 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Văn Th, do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa.
- Bị cáo bị kháng nghị:
Nguyễn Văn Th, sinh năm:1978 tại xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; HKTT: Thôn Q, xã Đ, huyện T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt nam; con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà: Lê Thị T, sinh năm: 1952; tiền sự: Không, tiền án: 04 tiền án Tại bản án số 47/2008/HSST ngày 05/6/2008 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Bị cáo chấp hành xong phần hình phạt nhưng chưa nộp án phí hình sự sơ thẩm.
Tại bản án số 50/2012/HSST ngày 10/5/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt nhưng chưa nộp số tiền truy thu xung quỹ nhà nước.
Tại bản án số 75/2015/HSST ngày 23/9/2015 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và đóng án phí và nghĩa vụ dân sự.
Tại bản án số 75/2017/HSST ngày 15/6/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đây là tình tiết định tội nên không xác định là tái phạm nguy hiểm. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 12/01/2018.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 27/8/2019, hiện đang tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa,có mặt tại phiên tòa.
- Ngoài ra còn có bị cáo Lê Trương T không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị:
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 01 giờ 00 phút ngày 15/6/2019, Nguyễn Văn Th điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Novo BKS 29X9 - 5567 đến khu vực ngã tư đường Quốc lộ 1A đi xã H thuộc địa phận Tiểu khu 6, thị trấn Gi, huyện T, tỉnh Thanh Hóa thì gặp Lê Trương T đang ngồi chờ khách chạy xe ôm; do có quen biết nên Th đã xin của Tiến 10.000đ để đi mua rượu uống. Sau khi đi mua và uống rượu xong, Th nhìn thấy chiếc xe mô tô Sirius BKS 36C1 - 150.14 đang để ở ngã tư đầu giải phân cách đường đi vào UBND huyện T. Nguyễn Văn Th biết đây là xe của Nguyễn Bá Th, sinh năm 1984 trú tại thôn 2, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa, nên đã rủ Tiến mang chiếc xe mô tô này đi giấu để Nguyễn Bá Th đi tìm, T đồng ý. Th đi lại phía chiếc xe kiểm tra thì xe không có chìa khóa nhưng vẫn đạp nổ được máy, thấy vậy Th ngồi lên xe nổ máy chạy xe đến khu vực bờ tường phía Tây của trường Mầm Non thị trấn G rồi giấu xe ở đó, còn T điều khiển xe mô tô Sirius BKS 36C1 - 259.47 đi theo và chở Th quay lại khu vực ngã tư đứng.
Khoảng 20 phút sau, không thấy anh Nguyễn Bá Th quay lại lấy xe nên Nguyễn Văn Th đã rủ T lấy chiếc xe mang đi bán, T đồng ý nên đã dùng xe mô tô của mình chở Th lại chỗ giấu xe, sau đó Th lấy chiếc xe điều khiển xuống khu vực bãi rác thuộc xã Y, huyện T, tỉnh Thanh Hóa cất giấu, rồi T tiếp tục chở Th về khu vực ngã tư để lấy xe mô tô của Th mang đi cất. Sau đó cả hai mang chiếc xe mô tô đã trộm cắp của anh Nguyễn Bá Th xuống khu vực Thị xã Hi, tỉnh Nghệ An để bán, nhưng xe không có giấy tờ nên không bán được, nên cả hai lại điều khiển chiếc xe này quay về.Khi đi đến khu vực Cầu Hổ, thuộc xã M, huyện T, tỉnh Thanh Hóa, chiếc xe trộm cắp hết xăng nên Th đã gọi điện thoại cho Lê Thọ L, sinh năm 1996, trú tại thôn Kh, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa để xin L 50.000đ tiền đổ xăng.Sau đó Th tiếp tục gọi điện thoại cho Nguyễn Duy Đ, sinh năm 1988, trú tại thôn P, xã T, huyện Th, tỉnh Thanh Hóa để nhờ Đ bán chiếc xe, Đ đồng ý và bảo Th mang xe lên huyện Th; một lúc sau thì L bắt xe Bus xuống cầu Hổ gặp và đưa tiền cho Th đi đổ xăng, sau đó Th rủ L lên huyện Th đi chơi cùng mình, rồi Th điều khiển chiếc xe trộm cắp chở L ngồi sau, còn T điều khiển xe mô tô của mình chạy theo sau. Khi lên đến huyện Th, T và L ngồi đợi ở quán nước còn Đ đã dẫn Th đến khu vực cây xăng Định Bình thuộc xã B, huyện Y, tỉnh Thanh Hóa gặp người đàn ông tên S rồi Th bán chiếc xe này cho S với giá 2.000.000đ sau đó Th đưa cho T 200.000đ rồi cả ba quay về huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Toàn bộ số tiền bán xe Th và T đã sử dụng hết vào việc tiêu xài cá nhân. Tại Kết luậnđịnh giá tài sản số 59/KLĐGTS ngày 23/6/2019 của Hội đồngđịnh giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện T kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius, màu sơn đen - trắng, có BKS 36C1 - 150.14, số máy C6K0DY055306, số khung 5C6K-055314, có dung tích 110, sử dụng từ 01/2014 xe hoạt động bình thường có giá trị là: 6.393.750đ (sáu triệu ba trăm chín mươi ba nghìn bảy trăm năm mươi đồng).
Quá trình điều tra xác định Lê Thọ L, Nguyễn Duy Đ không biết chiếc xe mô tô trên là do Nguyễn Văn Th trộm cắp mà có và cũng không được Th chia tiền, do vậy không có căn cứ để xử lý hình sự tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Đối với người đàn ông tên S ở huyện Y, tỉnh Thanh Hóa, người đã mua chiếc xe mô tô do Th và T trộm cắp, quá trình điều tra chưa xác định nhân thân đối tượng này do vậy chưa có căn cứ để xử lý hình sự.
Việc thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu; xử lý vật chứng:
- 01 chiếc xe mô tô Sirius BKS 36C1 - 150.14 do Nguyễn Văn Th và Lê Trương T trộm cắp của anh Nguyễn Bá Th, quá trình điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng hiện nay Cơ quan điều tra chưa truy thu được;
- Chiếc xe mô tô Nouvo BKS 29X - 5567 mà Nguyễn Văn Th sử dụng để thực hiện hành vi trộm cắp. Th khai đây là xe mượn của anh Nguyễn Viết C, sinh năm 1986 ở thôn Kh, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa, C không biết Th đã sử dụng chiếc xe này làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, nên chiếc xe này Th đã trả lại cho anh C. Qúa trình điều tra đã tiến hành điều tra xác minh anh C không có mặt ở địa phương nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý;
- Chiếc xe mô tô Sirius BKS 36C1 - 29547 mà Lê Trương T đã sử dụng khi đi trộm cắp tài sản, quá trình xác minh đây là xe của chị Hoàng Thị T (vợ của T), sinh năm 1980, trú tại thôn Tân Hòa, xã H, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Tuy nhiên hiện nay chị T đã bán chiếc xe trên cho một người đàn ông không quen biết nên Cơ quan điều tra hiện chưa thu giữ được;
- 01 chiếc điện thoại mà Nguyễn Văn Th sử dụng để liên lạc trong quá trình tiêu thụ tài sản trộm cắp, quá trình điều tra Th khai nhận đã làm mất chiếc điện thoại trên và không biết mất ở đâu nên Cơ quan điều tra không thu giữ được .
* Tại bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn Th.
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Trương T.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Th và Lê Trương T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Th 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày tạm giam 27/8/2019.
Bị cáo Lê Trương T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn từ tính từ ngày tạm giam 28/8/2019.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 357; 584; 587; 589 Bộ luật dân sự. Buộc các bị cáo Nguyễn Văn Th và Lê Trương T liên đới bồi thường cho anh Nguyễn Bá Th số tiền cụ thể là: Buộc bị cáo Nguyễn Văn Th bồi thường cho anh Nguyễn Bá Th số tiền 4.000.000đ; Buộc bị cáo Lê Trương T bồi thường cho anh Nguyễn Bá Th số tiền 2.393.750đ.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
*Ngày 25/12/2019,Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS-P7, nội dung: Kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HSST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh gia, phần áp dụng khung hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Th. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa căn cứ khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HS-ST theo hướng áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với Nguyễn Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản”.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Bị cáo Nguyễn Văn Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã tuyên và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án: Giữ nguyên quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKS-P7 Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia;
Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điều 17; Điều 58 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th từ 30 đến 36 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn Th Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Th thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình thể như sau:Vào khoảng 01 giờ 00 phút, ngày 15/6/2019, tại khu vực ngã tư đường Quốc lộ 1A đi xã H thuộc địa phận Tiểu khu 6, Thị trấn G, huyện Ta, Nguyễn Văn Th và Lê Trương T đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại xe Sirius BKS 36C1-150.14 của anh Nguyễn Bá Th, trị giá 6.393.750đ.Như vậy hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”
[2] Xét kháng nghị của Viện kiểm sát:
Ngày 05/6/2008 Nguyễn Văn Th bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia xử phạt 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 47/2008/HSST;chưa được xóa án tích, Nguyễn Văn Th lại tiếp tục phạm tội mới và bị Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 50/2012/HSST ngày 10/5/2012 với tình tiết tăng nặng là tái phạm. Bản án này đến nay bị cáo chưa được xóa án tích do chưa chấp hành quyết định tịch thu số tiền 3.900.000đ. Đến ngày 15/6/2019, bị cáo Th lại tiếp tục phạm tội “Trộm ắp tài sản” trị giá 6.393.750đ. Vì vậy, bị cáo Th phạm tội trong trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia xử phạt bị cáo theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là khôngchính xác.
Tại giai đoạn điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Th thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản của mình; bị cáo đã có thời gian tham gia nghĩa vụ Công an. Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Th đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa căn cứ khoản 2 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 125/2019/HS-ST theo hướng áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự để quyết định hình phạt đối với Nguyễn Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ chấp nhận.
[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 355; khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
* Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa.Sửa bản án số 125/2019/HSST ngày 29 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa phần áp dụng khung hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn Th.
Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; các Điều 17; 58; 38 của Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Th 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 27/8/2019.
* Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
* Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 66/2020/HS-PT ngày 24/02/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 66/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về