Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số:

261/2020/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 10 năm 2020, về việc tranh chấp hôn nhân và gia đình. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 24 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Lan A, sinh năm 1988; địa chỉ: Tiểu khu 10, xã H, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, (có mặt).

Bị đơn: Anh Lê Hải S, sinh năm 1984; địa chỉ: Thôn Q, xã T, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện đang chấp hành án tại Trại giam Vĩnh Quang, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai tiếp theo tại Toà án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Lan A trình bày:

Chị kết hôn với anh Lê Hải S ngày 19/4/2009, trước khi cưới có được tự do tìm hiểu, tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã T, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Cưới xong chị về làm dâu và ở chung cùng gia đình anh S. Tình cảm vợ chồng ban đầu hòa thuận hạnh phúc, đến cuối năm 2010 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn căng thẳng. Nguyên nhân là do anh S thường xuyên đánh và dùng vũ lực với chị, không tu trí làm ăn, không vun vén hạnh phúc gia đình, hai vợ chồng không còn tiếng nói chung nên thường xuyên xẩy ra cãi vã, va chạm. Tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt.

Năm 2011, anh S bị bắt và bị xử phạt 09 tháng tù về tội bắt giữ người trái pháp luật. Năm 2012 anh S tiếp tục bị xét xử 08 năm 3 tháng tù về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, hiện anh S đang chấp hành án tại Trại giam Vĩnh Quang. Anh chị sống ly thân từ năm 2011 đến nay. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải quyết cho chị được ly hôn anh Lê Hải S.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là cháu: Lê Hà T, sinh ngày 30/4/2010, hiện cháu đang ở với chị Lan A. Ly hôn chị xin được nuôi cháu T và không yêu cầu anh S phải đóng góp nuôi con chung.

Tài sản, công nợ, đất nông nghiệp, công sức: Chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Bị đơn anh Lê Hải S vắng mặt tại Tòa, nhưng tại Bản tự khai ngày 06 tháng 11 năm 2020, anh S trình bày: Về thời gian kết hôn, quá trình chung sống và mâu thuẫn vợ chồng như chị Lan A khai là đúng. Ngày 24/02/2014 anh bị bắt giam về tội “Bắt giữ người trái pháp luật” và “Cướp tài sản”. Ngày 27/5/2014, Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử anh 08 năm 03 tháng tù cho cả hai tội trên và anh đi chấp hành án tại Trại giam Vĩnh Quang từ đó đến nay. Từ khi anh đi chấp hành án thì vợ chồng anh không liên lạc thường xuyên, do vậy tình cảm vợ chồng xa cách, nhạt dần. Nay chị Lan A xin ly hôn anh nhất trí ly hôn. Việc Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường thụ lý giải quyết vụ án, anh không thắc mắc gì về thẩm quyền. Anh đề nghị Tòa án giải quyết, xét xử vụ án vắng mặt.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu: Lê Hà T, sinh ngày 30/4/2010, hiện cháu đang ở với chị Lan A. Ly hôn anh nhất trí để chị Lan A nuôi cháu T. Do anh đang chấp hành án tại Trại giam nên không thể cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Lan A.

Về tài sản, công nợ, đất nông nghiệp: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại Biên bản xác minh ngày 13 tháng 11 năm 2020, Ủy ban nhân dân xã T cung cấp: Anh S và chị Lan A đăng ký kết hôn ngày 19/4/2009. Việc kết hôn của anh chị không thuộc trường hợp bị đe dọa, cưỡng ép kết hôn. Về mâu thuẫn vợ chồng giữa anh S và chị Lan A thì Ủy ban nhân dân xã T không biết vì thực tế các khối đoàn thể hay Ủy ban nhân dân xã T đều không nhận được đơn đề nghị giải quyết mâu thuẫn vợ chồng của anh S hay chị Lan A. Hiện chị Lan A không chung sống cùng gia đình anh S tại thôn Q, xã T, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Về con chung: Anh Lê Hải S và chị Nguyễn Thị Lan A có 01 con chung là cháu Lê Hà T, sinh ngày 30/4/2010, hiện cháu T đang ở với chị Lan A. Nay chị Lan A có đơn xin ly hôn anh S và xin nuôi con, Ủy ban nhân dân xã T đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho các đương sự và cho cháu T.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 29 tháng 10 năm 2020, cháu Lê Hà T là con chung của chị Lan A và anh S trình bày nguyện vọng muốn được ở với mẹ.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phát biểu quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định; người tham gia tố tụng chị Lan A đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, anh S là bị đơn hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Vĩnh Quang, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo nhưng anh S đã có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vụ án và xét xử vắng mặt anh.

Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 55; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 31/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Cho chị Nguyễn Thị Lan A được ly hôn anh Lê Hải S; về con chung: Chị Nguyễn Thị Lan A được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Hà T, sinh ngày 30/4/2010. Anh Lê Hải S không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Lan A phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Lan A khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Lê Hải S, có hộ khẩu tại: Thôn Q, xã T, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Theo quy định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Đối với anh Lê Hải S: Hiện nay đang chấp hành án tại Trại tạm giam Vĩnh Quang, xã Đạo Trù, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Anh S đã có Bản tự khai, có Đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường giải quyết, xét xử vắng mặt. Vụ án thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án chỉ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định của pháp luật.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Lan A và anh Lê Hải S đăng ký kết hôn ngày 19/4/2009, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Vĩnh Tường. Trước khi kết hôn có được tự do tìm hiểu vì vậy quan hệ hôn nhân giữa chị Lan A và anh S là tự nguyện, hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Xem xét hôn nhân giữa chị Lan A và anh S thấy rằng cuộc sống chung vợ chồng giữa chị Lan A và anh S có rất nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân như chị Lan A trình bày do anh S thường xuyên đánh và dùng vũ lực với chị, không tu trí làm ăn, không vun vén hạnh phúc gia đình, hai vợ chồng không còn tiếng nói chung nên thường xuyên xẩy ra cãi vã, va chạm. Tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt. Năm 2013, anh S bị bắt và bị xử phạt 09 tháng tù về tội bắt giữ ng ười trái pháp luật. Năm 2014 anh S tiếp tục bị xét xử 08 năm 3 tháng tù về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, hiện anh S đang chấp hành án tại Trại giam Vĩnh Quang.

Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương nơi anh S có hộ khẩu cho biết: Chính quyền địa phương không nắm được việc mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Lan A và anh S. Việc chị Lan A xin ly hôn và các mối quan hệ khác trong vụ án, chính quyền địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Tại Bản tự khai ngày 06 tháng 11 năm 2020, anh S cũng thừa nhận anh và chị Lan A mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống vợ chồng không còn tiếng nói chung nên chị Lan A xin ly hôn anh hoàn toàn nhất trí. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Lan A và anh S đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị Lan A xin ly hôn là chính đáng, phù hợp với thực tế và quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình do đó cần được chấp nhận.

[3]. Về con chung: Chị Lan A và anh S có 01 con chung là cháu Lê Hà T, sinh ngày 30/4/2010, hiện cháu T đang ở với chị Lan A. Ly hôn anh S nhất trí để chị Lan A nuôi cháu T. Hiện tại cháu Lê Hà T đã trên 7 tuổi và có nguyên vọng ở với mẹ là chị Lan A. Theo quy định tại Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì việc nuôi con sau khi ly hôn là trách nhiệm, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Do đó để đảm bảo sự phát triển về mọi mặt cho cháu T, cần giao cháu T cho chị Lan A trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Cấp dưỡng nuôi con chung chị Lan A không đề nghị giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung, công nợ, công sức lao động, đất nông nghiệp: Chị Lan A, anh S không đề nghị giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường phù hợp tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Lan A phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điều 51, 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 31/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Lan A được ly hôn anh Lê Hải S.

2. Về nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị Lan A được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Hà T, sinh ngày 30/4/2010 (hiện cháu T đang ở với chị Lan A). Anh Lê Hải S không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, công nợ, công sức lao động, đất nông nghiệp: Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Lan A phải chịu 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0005134 ngày 07/10/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường. Chị Lan A đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo bản án: Trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 09/12/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình 

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về