Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - xin ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 66/2020/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH - XIN LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 07/9/2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 413/2020/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 8 năm 2020 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - xin ly hôn, nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 205/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Lê Thị L, sinh năm 1983;

Địa chỉ: khóm M P C L, TT. M T, huyện C L, tỉnh Đồng Tháp.

Bị đơn: Phạm Minh T, sinh năm 1983;

Địa chỉ: khóm M P C L, TT. M T, huyện C L, Đồng Tháp.

(Chị L và anh T có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, biên bản hòa giải ngày 20/8/2020 nguyên đơn là chị Lê Thị L trình bày: chị và anh T chung sống với nhau khoảng năm 2001 không có đăng ký kết hôn. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian sau khi kết hôn thì cuộc sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và bất đồng quan điểm sống. Chị đã nhiều lần nói chuyện và tìm cách hàn gắn tình cảm vợ chồng với anh T nhưng không T. Vợ chồng đã ly thân khoảng 02 năm, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh T. - Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Thị Thu H, sinh ngày 07/7/2003, đang sống với chị L. Khi ly hôn, chị L yêu cầu được nuôi con chung Phạm Thị Thu H, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản hòa giải ngày 20/8/2020, bị đơn là Phạm Minh T trình bày:

- Về hôn nhân: Anh thống nhất với nội dung trình bày của chị L về thời gian chung sống, không có đăng ký kết hôn, cũng như mâu thuẫn vợ chồng là đúng, anh và chị L đã ly thân khoảng 02 năm, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không ai có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng nên anh đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị L.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Thị Thu H, sinh ngày 07/7/2003, đang sống với chị L. Khi ly hôn, anh đồng ý để con chung Phạm Thị Thu H cho chị L nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

- Giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu (photo).

- Trích lục khai sinh (bản sao).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Căn cứ vào đơn yêu cầu của chị Lê Thị L về việc yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Minh T, nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật của vụ án này là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - xin ly hôn, nuôi con”.

Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - xin ly hôn giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn hiện nay đang cư trú tại thị trấn M T, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

- Về hôn nhân: Chị Lê Thị L và anh Phạm Minh T chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 2001, nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Trong quá trình sống chung, chị L và anh T không xây dựng được hạnh phúc gia đình nên chị L yêu cầu được ly hôn. Tuy nhiên, chị L và anh T sống chung với nhau không đăng ký kết hôn, theo khoản 1 Điều 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”. Do đó, không công nhận chị Lê Thị L và anh Phạm Minh T là vợ chồng.

Tại biên bản hòa giải, anh T thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng về quan điểm sống, anh và chị L đã ly thân khoảng 02 năm, không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và không ai có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị L và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị L yêu cầu được ly hôn với anh T là có cơ sở để chấp nhận.

- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Thị Thu H, sinh ngày 07/7/2003, đang sống với chị L. Khi ly hôn, chị L yêu cầu được nuôi con chung Phạm Thị Thu H, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, con chung Phạm Thị Thu H đang sống với chị L, để đảm bảo cuộc sống, học tập ổn định cũng như việc phát triển bình thường về thể chất và tinh thần cho cháu H nên cần để cho chị L được tiếp tục nuôi dưỡng cháu. Đồng thời, tại bản tự khai của cháu H cũng xác định khi cha mẹ ly hôn thì nguyện vọng của các cháu là được sống chung với chị L. Do đó, việc chị L yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung là phù hợp. Chị L không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3] Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, thì chị L phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị L đã nộp theo biên lai số 0003993 ngày 05/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 8, 9, 14, 51, 53, 56, 81; 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí - lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của chị Lê Thị L.

- Về hôn nhân: Không công nhận chị Lê Thị L và anh Phạm Minh T là vợ chồng.

- Về con chung: Con chung tên Phạm Thị Thu H, sinh ngày 07/7/2003, sẽ do chị L nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị L không có yêu cầu.

Anh T có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí: Chị Lê Thị L phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị L đã nộp theo biên lai số 0003993 ngày 05/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 66/2020/HNGĐ-ST ngày 07/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình - xin ly hôn, nuôi con

Số hiệu:66/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về