TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 66/2019/HS-PT NGÀY 06/03/2019 VỀ TỘI VÔ Ý LÀM CHẾT NGƯỜI DO VI PHẠM QUY TẮC NGHỀ NGHIỆP
Ngày 06 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 23/2019/HS-PT ngày 04/01/2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn H, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 115/2018/HS-ST ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện N.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn H, sinh năm 1978, tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Nơi cư trú: Khu phố T, thị trấn T, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu;
Dân tộc: Kinh; trình độ học vấn: 9/12, Quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Thợ điện;
Con ông T(đã chết) và bà H, sinh năm 1941; Bị cáo có vợ là P, sinh năm 1980 và có 2 con (lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2016);
Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/11/2017 đến ngày16/11/2017 được tại ngoại điều tra.
Ngoài ra còn có 02 bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
(Đối với người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 20/9/2017, Chi nhánh Điện Lực N thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Điện lực Đồng Nai ký hợp đồng số 80/HĐ-ĐLNT với Công ty Cổ phần dịch vụ xây dựng Q để thi công các hạng mục công trình tại các
Trạm biến áp V, tuyến 480 ĐK thuộc xã V, huyện N. Sau đó, Công ty Q thuê Nguyễn Văn H thi công. H tiếp tục thuê các anh Phạm Đình T, Hoàng Văn K, Nguyễn Thanh S, Trần Ngọc T1, Nguyễn Vũ Khải H1, Phan Văn M, Huỳnh Như Y, Phạm Văn C, Đắc Đình S1, Bùi Trọng T2, Phạm Văn C2, Đỗ Thiên Đ, Nguyễn Văn V, Danh Chí X, Lê Minh T3 và anh Lê Hữu M (sinh năm 1991), ngụ tại xã B, huyện P, tỉnh H là những người không được qua đào tạo, không được huấn luyện về công tác an toàn điện để thực hiện công việc.
Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 10/11/2017, anh Đỗ Đức T4 (sinh năm1976) tổ trưởng tổ trực Trung tâm Điện lực N thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Điện lực Đồng Nai phân công Phạm Đức T5 đi chỉ huy, kiểm tra và cho phép đóng ngắt nguồn điện để Công ty Q thi công sửa chữa các hạng mục tại tại trạm điện V 09 thuộc ấp T, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai. Anh Nguyễn Thi L (sinh năm 1982) trưởng ca trực của Điện Lực N thuộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Điện lực Đồng Nai điều động Phạm Ngọc T6 đi cùng T5 để thực hiện các thao tác kỹ thuật theo yêu cầu của T5.
Vào khoảng 09 giờ 00 ngày 10/11/2017, T5 điều khiển xe ô tô biển số 60C2-03203 (của Điện lực N) chở T6 đến trạm V 09 và yêu cầu T5 ngắt nguồn điện mà không kiểm tra số lượng và bậc an toàn của người lao động được phép thi công công trình theo phiếu công tác số 11/11/17 ngày 10/11/2017 của Tổ trực Trung tâm thuộc Đội Quản lý vận hành đường dây và trạm biến áp - Điện lực N với số lao động làm việc thực tế tại công trình, dẫn đến tình trạng người lao động không có tên trong công việc yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động như anh X, anh T4, anh M mà ký vào phiếu công tác rồi giao cho H.
Đến khoảng 14 giờ 00 cùng ngày, T5 gọi điện thoại cho H hỏi đã thi công xong chưa và yêu cầu H cầm theo phiếu công tác đến đường H gần trạm điện V 10 thuộc ấp T, xã V, huyện N, tỉnh Đồng Nai đợi T5 và T6 để bàn giao phiếucông tác.
Trước khi đi bàn giao phiếu công tác, H điều khiển xe mô tô đi qua chỗ anh M đang thi công đấu nối đường điện trên trụ điện số 08 đường hẻm vào Trường tiểu học V2 thuộc ấp T, xã V, huyện N. H thông báo đóng nguồn điện nhưng không yêu cầu anh M rút khỏi công trình mà H tiếp tục đi ra đường HV đến gần Trạm điện V10 gặp T5 và T6.
Tại đây, T5 và H cùng ký chốt vào phiếu công tác, T5 nhận phiếu công tác từ tay H nhưng không đi đến thực tế tại hiện trường để rà soát, kiểm tra toàn bộ quá trình thực hiện công việc của đơn vị thi công và không yêu cầu người lao động rút khỏi công trình mà ra lệnh cho T6 ra đóng nguồn điện.
Khi T6 nhận lệnh đóng nguồn điện, mặc dù biết T5 không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cần thiết trước khi ra quyết định cho phép đóng nguồn điện nhưng T6 không từ chối thực hiện mà vẫn đi đến trạm điện V09 để đóng điện. Hậu quả, anh M đang thi công trên trụ điện số 08 đường hẻm vào Trường tiểu học V 2 thuộc ấp T, xã V, huyện N, bị điện giật chết tại hiện trường.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 115/2018/HSST ngày 14/11/2018, Tòa án nhân dân huyện N quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn H, Phạm Đức T5, Phạm Ngọc T6 phạm tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp”.
Áp dụng khoản 1 Điều 129, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Nguyễn Văn H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 129, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xử phạt Phạm Đức T5 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Áp dụng khoản 1 Điều 129, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, xử phạt Phạm Ngọc T6 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về biện pháp tư pháp, trách nhiệm dân sự,án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 28/11/2018, bị cáo Nguyễn Văn H có kháng cáo xin được hưởng ántreo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H một năm sáu tháng tù về tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp” là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cở sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Bị cáo Nguyễn Văn H được Công ty Cổ phần dịch vụ xây dựng Q thuê thi công các hạng mục công trình điện tại Trạm điện V9 thuộc ấp T, xã V, huyện N.
Ngày 10/11/2017, bị cáo H đã thuê và bố trí người không được đào tạo, huấn luyện về công tác an toàn điện để thực hiện công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động. Ngoài ra, H không thực hiện đầy đủ và không đúng trình tự các biện pháp an toàn theo quy định của quy phạm kỹ thuật an toàn điện. Vì vậy, cùng với sự thiếu trách nhiệm của các bị cáo Phạm Đức T5, Phạm Ngọc T6 là nhân viên Chi nhánh điện lực N đã để xảy ra sự cố, anh Lê Hữu M đang thi công trên trụ điện số 08, đường hẻm vào Trường tiểu học V2 thuộc ấp T, xã V, huyện N bị điện giật chết tại hiện trường. Toà án nhân dân huyện N tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp”, xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là có căn cứ.
Sau khi kháng cáo bản án sơ thẩm, bị cáo H xuất trình tài liệu, giấy tờ thể hiện bị cáo là cháu ngoại của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đây cũng được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và là tình tiết mới, cần xem xét bổ sung cho bị cáo.
Như vậy, ngoài những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1 thì bị cáo H còn được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự như: Phạm tội lần đầu, đại diện bị hại có đơn xin bãi nại, là cháu của bà mẹ Việt Nam anh hùng. Vì vậy, Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt tù cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng, có điều kiện chăm sóc cho gia đình và đóng góp cho xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.
Do kháng cáo được chấp nhận một phần, bị cáo H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết lại.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn H, sửa bản án sơ thẩm số 115/2018/HS-ST ngày 14/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện N:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp”.
Áp dụng khoản 1 Điều 129, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án nhưng được trừ đi thời gian tạm giữ từ ngày 10/11/2017 đến ngày 16/11/2017.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 66/2019/HS-PT ngày 06/03/2019 về tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp
Số hiệu: | 66/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về