TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 66/2017/HSPT NGÀY 23/05/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 5 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh BĐ xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 45/2017/HSPT ngày 17.4.2017 đối với bị cáo Nguyễn Thanh N do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 03.3.2017 của Tòa án nhân dân huyện HN.
Bị cáo có kháng cáo:
NGUYỄN THANH N, sinh năm 1989 tại VL; Nơi cư trú: Thôn VT, xã VX, huyện T, tỉnh VL; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1968 và bà Trần Thị M, sinh năm 1963; Tiền án, tiền sự:
- Ngày 19.02.2009, bị TAND huyện T, tỉnh VL xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;
- Ngày 18.12.2012, bị TAND huyện V, tỉnh VL xử phạt 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Lịch sử bản thân: Ngày 29.11.2016, bị TAND huyện T, tỉnh VL xử phạt 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Bắt tạm giam: 23.9.2016; Bị cáo có mặt.
NHẬN THẤY
Theo bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện HN và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện HN thì nội dung vụ án tóm tắt như sau:
Nguyễn Thanh N từ TP. Hồ Chí Minh đến huyện HN, tỉnh BĐ với mục đích trộm cắp tài sản.
Vào khoảng 11 giờ ngày 15.9.2016 Nguyễn Thanh N lén lút chiếm đoạt xe mô T hiệu Exciter, biển kiểm soát 77C1-378.22 trị giá 45.500.000 đồng của ông Nguyễn Thế C ở thôn BC, xã HĐ; Sau đó N điều khiển xe vào TP.Hồ Chí Minh bán cho một người không rõ lý lịch với giá 15.000.000đ, xe mô tô không thu hồi được.
Khoảng 13 giờ ngày 23.9.2016, N phát hiện xe mô T hiệu AirBlade biển kiểm soát 77C1-080.88 trị giá 21.000.000đ của chị Nguyễn Thị Thanh T đang dựng trước nhà chợ BS thuộc Khối 2, thị trấn BS. N dùng cây đoản mở khóa xe điều khiển xe ra đường QT, thị trấn BS và chạy về hướng Nam, đến thị trấn PM, huyện PM thì bị phát hiện bắt giữ, xe mô tô thu hồi trả lại cho người bị hại
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 03.3.2017 của Tòa án nhân dân huyện HN đa quyết đinh:
* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh N phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.
* Áp dụng: Điểm a, c Khoản 2 Điều 138; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 51 của Bộ luật hình sự.
* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh N 05 năm tù; Tổng hợp với 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 43/2016/HSST ngày 29.11.2016 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh VL. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 23.9.2016.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thâm c òn quyết định về việc bồi thường thiệt hại, việc xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 10.3.2017 bị cáo Nguyễn Thanh N kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh BĐ và đề nghị: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Căn cứ va o các chứng cứ, tài liệu đa đươ c thâm tra tại phiên tòa phúc thâm; căn cư vao kết quả tranh luân tại phiên tòa, trên cơ sơ xem xet đây đu, toàn diên tai liêu, chưng cư, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo.
XÉT THẤY
Bị cáo Nguyễn Thanh N có 02 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, vào ngày 15.9.2016 và ngày 23.9.2016 tại huyện HN, BĐ, Nguyễn Thanh N đã lợi dụng sự sơ hở của các chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, lén lút chiếm đoạt 02 xe mô T có giá trị 66.500.000 đồng.
Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2017/HSST ngày 03.3.2017 của Tòa án nhân dân huyện HN đa xét xử bị cáo Nguyễn Thanh N về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Điểm a, c Khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.
Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh N trong hạn luật định nên được chấp nhận; Xét kháng cáo của bị cáo, HĐXX thấy rằng:
Bị cáo xin giảm hình phạt, nhưng các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo trình bày tại phiên tòa phúc thẩm đều là những tình tiết mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng, trong quá trình giải quyết vụ án phúc thẩm cũng như tại phiên tòa, bị cáo không đưa ra được những chứng cứ, tình tiết mới để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điểm a, c Khoản 2 Điều 138; Điểm p Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 05 năm tù là tương xứng với mức độ nguy hiểm do hành vi trái pháp luật của bị cáo đã gây ra; Do đó không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp với các quy định của pháp luật.
Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị giữ nguyên.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ Điểm a Khoản 2 Điều 248 của Bộ luật tố tụng hình sự.
QUYẾT ĐỊNH
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh N. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
* Áp dụng: Điểm a, c Khoản 2 Điều 138; Điểm p Khoản 1 Điều 46; Điều 51 của Bộ luật hình sự.
* Xử phạt:
Bị cáo Nguyễn Thanh N 05 năm tù; Tổng hợp với 05 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 43/2016/HSST ngày 29.11.2016 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh VL. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 10 (mười) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 23.9.2016.
2. Về án phí HSPT: Bị cáo Nguyễn Thanh N phải chịu 200.000đ;
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án 66/2017/HSPT ngày 23/05/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 66/2017/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về