Bản án 657/2020/HNGĐ-ST ngày 25/12/2020 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

 BẢN ÁN 657/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 476/2020/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 24-11-2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 106/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10-12-2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Trần Thị Thanh  M, sinh năm 1986; Đăng ký hộ khẩu: Nguyễn Văn Trỗi, phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: Số nhà 6 đường Vị Xuyên, phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Giảng viên trường Đại học Điều dưỡng Nam Định. Có mặt.

- Bị đơn: anh Trần Mạnh C, sinh năm 1984; Đăng ký hộ khẩu và nơi cư trú: Nguyễn Văn Trỗi, phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: CB thi công công ty Đại Tiến Thành, Nam Định. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình nộp ngày 08-10-2020, trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Trần Thị Thanh  M trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Trần Mạnh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 29 tháng 11 năm 2017 tại Ủy ban nhân dân phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định và đã có một con chung. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hòa hợp, trong sinh hoạt hàng ngày vợ chồng luôn bất đồng quan điểm dẫn tới không có tiếng nói chung và sự chia sẻ với nhau. Khi xảy ra mâu thuẫn anh C thường xuyên chửi mắng vợ, có lần đã đánh vợ. Sau khi chị sinh con được 10 ngày thì vợ chồng mâu thuẫn trong việc chăm sóc con nên anh C chửi mắng vợ, dẫn đến quan hệ giữa bố mẹ chị và anh C, gia đình anh C cũng mâu thuẫn căng thẳng. Bố mẹ anh C cấm không cho bố mẹ chị đến thăm cháu nên từ đó đến nay chị không được đưa con đến nhà ông bà ngoại, ông bà ngoại không được gặp cháu. Mỗi khi anh C đi uống rượu về lại gây sự mắng chửi vợ. Từ hai năm nay anh C không còn quan hệ gì với bố mẹ vợ. Cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc, mâu thuẫn tích tụ lâu ngày nên chị đã làm đơn ly hôn. Sau khi chị làm đơn ly hôn thì vợ chồng càng mâu thuẫn căng thẳng và gia đình anh C đã đuổi chị ra khỏi nhà và không cho chị mang con đi. Hiện nay chị về nhà bố mẹ đẻ sống còn con vẫn sống cùng anh C và ông bà nội. Bản thân chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên có nguyện vọng xin được ly hôn anh C.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Trần Anh Tuấn, sinh ngày 16- 7-2018. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con 02 triệu đồng một tháng. Hiện nay chị  M là giảng viên Trường Đại học điều dưỡng với mức lương hàng tháng khoảng 9 triệu đồng và đang sống tại nhà bố mẹ đẻ.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị xác định vợ chồng không có gì chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai vào ngày 16-10-2020 và quá trình tham gia tố tụng bị đơn anh Trần Mạnh C trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian, điều kiện kết hôn như chị  M trình bày là đúng. Mâu thuẫn vợ chồng xảy ra nguyên nhân ban đầu chỉ là bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày. Sau khi chị  M sinh con được hơn 10 ngày thì do vợ chồng bất đồng quan điểm về cách cư xử. Chị  M để quạt chạy không, anh hỏi chị  M sao không tắt nhưng chị  M không nói gì nên anh đã chửi chị  M. Chị  M đã mời bố mẹ đẻ chị  M đến nhà anh nên hai bên thông gia xảy ra mâu thuẫn. Từ đó đến nay bố mẹ chị  M không đến nhà anh. Bản thân anh từ đó đến nay cũng không liên lạc và thăm nom hay đến nhà bố mẹ vợ và cũng không cho con anh về nhà ông bà ngoại chơi. Chị  M tự tranh thủ về nhà thăm bố mẹ đẻ. Vợ chồng vẫn chung sống bình thường, thỉnh thoảng có xảy ra va chạm nhưng đến nay chị  M làm đơn ly hôn. Khi anh nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án thì gia đình xảy ra va chạm, chị  M túm áo và cào vào cổ mẹ anh. Mẹ anh cho rằng chị  M hỗn láo với mẹ chồng nên mẹ anh đuổi chị  M ra khỏi nhà. USB ghi lại đoạn ghi âm cãi vã giữa gia đình anh và chị  M là tiếng của bố mẹ anh, anh và chị  M. Mẹ anh chửi chị  M và đuổi chị  M ra khỏi nhà là đúng vì không chấp nhận người con dâu như vậy. Chị  M đã về nhà bố mẹ đẻ sống từ ngày 09-10-2020 cho đến nay. Thời gian gần đây anh cũng cố gắng hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng nhưng chị  M không có thiện chí, mâu thuẫn vợ chồng càng căng thẳng. Quan điểm của anh về tình cảm vợ chồng vẫn còn, anh vẫn yêu thương vợ con nên anh không đồng ý ly hôn.

- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Trần Anh Tuấn, sinh ngày 16-7-2018. Nếu ly hôn anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và tự nguyện không yêu cầu chị  M cấp dưỡng nuôi con chung. Thu nhập hiện nay của anh khoảng 15 triệu/tháng. Còn nếu chị  M trực tiếp nuôi con thì anh không cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và vay nợ chung: anh xác định vợ chồng không có gì chung, không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ tại địa phương cũng xác nhận tình trạng hôn nhân giữa chị  M và anh C đã mâu thuẫn, vợ chồng anh chị không còn sống chung, chị  M đã về nhà bố mẹ đẻ ở. Con chung đang sống cùng anh C và ông bà nội. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản làm việc tại Trường Đại học điều dưỡng cung cấp: Chị Trần Thị Thanh  M công tác tại Trung tâm thực hành tiền lâm sàng trường Đại học điều dưỡng Nam Định. Chị  M là một cán bộ có năng lực và phẩm chất đạo đức chuẩn mực, luôn hoàn thành mọi nhiệm vụ. Công đoàn trường đã nắm được tình trạng hôn nhân của chị  M xảy ra mâu thuẫn từ khi chị  M mới sinh con. Công đoàn trường đã phân tích khuyên chị  M nên cố gắng hàn gắn mâu thuẫn vì con. Thời gian gần đây chị  M báo cáo nhà trường về việc làm thủ tục ly hôn vì mâu thuẫn vợ chồng càng căng thẳng. Vợ chồng chị  M có 01 con dưới 36 tháng tuổi. Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật và xem xét bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và trẻ em.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá:

Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị  M và anh C là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng anh chị đã xảy ra mâu thuẫn dẫn tới cuộc sống chung của anh chị không còn trên thực tế. Nay hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử ly hôn giữa chị Trần Thị Thanh  M và anh Trần Mạnh C. Về con chung: Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị giao con chung Trần Anh Tuấn cho chị  M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh C phải cấp dưỡng nuôi con 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng/tháng tính từ tháng 12-2020 đến khi con chung thành niên, có khả năng lao động được là phù hợp với quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Trần Thị Thanh  M và anh Trần Mạnh C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Vị Xuyên, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định vào ngày 29-11-2017 nên hôn nhân giữa chị  M và anh C là hôn nhân hợp pháp.

[2] Về tình cảm: Vợ chồng chị  M và anh C chung sống hòa thuận một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do cách cư xử của hai bên không hòa hợp, vợ chồng bất đồng về cách nuôi con và không có tiếng nói chung trong cuộc sống hôn nhân. Sau khi chị  M sinh con được một thời gian ngắn thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, đánh chửi nhau. Chị  M và anh C đã không tự giải quyết mâu thuẫn được với nhau, để hai bên gia đình can thiệp dẫn đến mâu thuẫn càng căng thẳng. Hai bên thông gia, bố mẹ vợ và con rể không còn quan hệ tình cảm đi lại với nhau từ hai năm nay. Bản thân anh C không nhìn nhận được sự việc để tìm biện pháp khắc phục, luôn giữ quan điểm mình không sai nên không qua lại thăm hỏi bố mẹ vợ và cũng không cho con đến nhà ông bà ngoại. Sau khi chị  M nộp đơn ly hôn thì xảy ra va chạm cãi vã giữa gia đình anh C và chị  M . Chị  M đã về nhà bố mẹ đẻ ở và vợ chồng đã sống ly thân, mỗi người sống một nơi. Tòa án đã hòa giải phân tích, tạo điều kiện cho chị  M và anh C khắc phục mâu thuẫn . Mặc dù, anh C mong muốn vợ chồng đoàn tụ nhưng không giải quyết được những mâu thuẫn trong quan hệ gia đình, chị  M vẫn kiên quyết đề nghị được ly hôn với anh C. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị  M và anh C ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử có căn cứ cho ly hôn giữa chị  M và anh C theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về việc nuôi con chung: Vợ chồng chị  M và anh C có một con chung là Trần Anh Tuấn, sinh ngày 16-7-2018. Xét điều kiện chỗ ở của cả hai bên đều sống chung cùng bố mẹ đẻ, xét về công việc và mức thu nhập của hai bên đều ổn định và tương đương nhau. Tuy nhiên, cháu Trần Anh Tuấn, sinh ngày 16-7- 2018 đến nay được 29 tháng 09 ngày. Chị  M và anh C không có thỏa thuận gì thống nhất về việc người trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Theo khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình quy định “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử giao con chung cho chị  M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật. Hiện nay, cháu Trần Anh Tuấn đang sống cùng anh C nên buộc anh C có trách nhiệm giao con chung cho chị  M trực tiếp nuôi dưỡng.

[3] Về việc cấp dưỡng nuôi con: Xét đơn xác nhận về việc công tác hiện nay chị  M là giảng viên Trường Đại học điều dưỡng với mức lương hàng tháng khoảng 9 triệu đồng và hợp đồng lao động của anh C với mức lương 15 triệu/ tháng. Hai bên đều có thu nhập ổn định. Vì vậy, nguyện vọng của chị  M yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con 2 triệu/tháng là phù hợp nên được chấp chận.

[5] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị  M và anh C xác nhận vợ chồng không có tài sản gì chung, vay nợ gì chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chị Trần Thị Thanh  M là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm. Anh C là người có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con nên phải nộp án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Thanh  M và anh Trần Mạnh C.

2. Về nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con: Buộc anh Trần Mạnh C giao con chung là Trần Anh Tuấn, sinh ngày 16-7-2018 cho chị Trần Thị Thanh  M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục. Buộc anh Trần Mạnh C phải cấp dưỡng nuôi con 2.000.000 đồng/tháng (Hai triệu đồng một tháng) kể từ tháng 12-2020 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi, có khả năng lao động, tự lập được.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung 3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Thanh  M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Trần Thị Thanh  M đã nộp tại biên lai số 0003235 ngày 08- 10-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định. Chị Trần Thị Thanh  M đã nộp đủ.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Trần Mạnh C phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Chị Trần Thị Thanh  M, anh Trần Mạnh C có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì chị Trần Thị Thanh  M và anh Trần Mạnh C có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 657/2020/HNGĐ-ST ngày 25/12/2020 về ly hôn

Số hiệu:657/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về