TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 65/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 25 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Bảo tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 151/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021, về việc "Ly hôn, tranh chấp về nuôi con" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2021/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị V; ĐKHKTT: Xóm 5, thôn AQ, xã CH, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: Số nhà 178A, thôn 2, xã Bát Tràng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; vắng mặt tại phiên toà (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Bùi Văn C; nơi cư trú: Xóm 5, thôn AQ, xã CH, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, chị Phạm Thị V trình bày:
1. Về quan hệ vợ chồng: Chị và anh Bùi Văn C kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã CH, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng vào ngày 21 tháng 9 năm 2005. Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhưng không đạt kết quả. Từ năm 2016 đến nay, vợ chồng anh chị đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Chị đã cố gắng khắc phục mâu thuẫn nhưng không hàn gắn được. Nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể khắc phục nên chị V yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Bùi Văn C.
2. Về con chung: Chị Phạm Thị V và anh Bùi Văn C có 03 con chung là Bùi Phú C1, sinh ngày 28-12-2006; Bùi Hiểu L, sinh ngày 09-6-2012 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 02-8-2014. Khi ly hôn, chị V đề nghị Tòa án giao con chung Bùi Phú C1 cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Bùi Hiểu L và Bùi Tuấn K cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chị xin tự thỏa thuận với anh C, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3. Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Lời khai của anh Bùi Văn C thống nhất với chị Phạm Thị V về thời gian, điều kiện kết hôn, quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không tìm được tiếng nói chung. Nay chị V có đơn ly hôn với anh, anh C thấy vợ chồng không còn tình cảm, nên anh đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của chị V; về con chung anh C và chị V có 03 con chung về họ tên, tuổi như chị V trình bày, ly hôn, anh đề nghị Tòa án giao con chung Bùi Phú C1 và Bùi Tuấn K cho anh trực tiếp nuôi dưỡng, giao con chung Bùi Hiểu La cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, vấn đề cấp dưỡng anh chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết; về tài sản, công nợ và các vấn đề khác, anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Bảo phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, thư ký, Hội đồng xét xử đã đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn là chị Phạm Thị V có đơn khởi kiện về việc ly hôn, anh Bùi Văn C là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị V đã cơ bản thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, bị đơn anh C không đến tham gia tố tụng tại Tòa theo giấy triệu tập của Tòa án là đã không tuân thủ các điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn: giải quyết chị Phạm Thị V được ly hôn anh Bùi Văn C; về con chung: Giao cho chị Phạm Thị V được nuôi dưỡng con chung Bùi Hiểu L và Bùi Tuấn K, anh Bùi Văn C được nuôi dưỡng con Bùi Phú C1 đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; về cấp dưỡng nuôi con chung các đương sự không yêu cầu, nên đề nghị không xét; về tài sản: Các đương sự không có yêu cầu nên đề nghị Tòa án không xét; chị V phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên toà, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
- Về tố tụng:
[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án về việc ly hôn, theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì thẩm quyền giải quyết tranh chấp thuộc Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
[2] Về việc vắng mặt của nguyên đơn chị Phạm Thị V, bị đơn anh Bùi Văn C: Chị V, anh C vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 02, chị V có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh C vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị V, anh C.
- Về yêu cầu của nguyên đơn chị Phạm Thị V:
[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị V kết hôn với anh Bùi Văn C trên cơ sở được tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã CH, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng vào ngày 21 tháng 9 năm 2005, căn cứ vào khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình, xác định là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống trên cơ sở lời khai của đương sự, biên bản xác minh của Tòa án thấy: Vợ chồng sống chung hòa thuận, hạnh phúc được 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không tìm được tiếng nói chung. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhưng không đạt kết quả. Từ năm 2016 đến nay, vợ chồng chị V, anh C sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Căn cứ vào khoản 1, 2 Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình, xác định mâu thuẫn của chị V, anh C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc chị V xin ly hôn anh C là có căn cứ, phù hợp Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của chị V được ly hôn anh C.
[4] Về con chung: Chị Phạm Thị V và anh Bùi Văn C có 03 con chung là Bùi Phú Cường, sinh ngày 28-12-2006; Bùi Hiểu Lam, sinh ngày 09-6-2012 và Bùi Tuấn Kiệt, sinh ngày 02-8-2014. Cháu Bùi Hiểu L, Bùi Tuấn K hiện đang ở với chị V; cháu Bùi Phú C1 đang ở với anh C được chị V, anh C nuôi dạy tốt, chị V làm công nhân có thu nhập ổn định, đảm bảo được điều kiện nuôi con, anh C không cung cấp chứng cứ về điều kiện nuôi con theo yêu cầu của Tòa án; các cháu Bùi Phú C1, Bùi Hiểu L, Bùi Tuấn K tính đến ngày xét xử đều đã trên 07 tuổi, cháu Lam, cháu Kiệt có nguyện vọng đề nghị được ở với chị V, cháu Cường có nguyện vọng đề nghị được ở với anh C. Nên căn cứ Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị V, giao cháu Bùi Hiểu L, Bùi Tuấn K cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Bùi Phú C1 cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp, đảm bảo điều kiện tốt nhất cho các con của chị V và anh C.
[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Phạm Thị V, anh Bùi Văn C không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Về tài sản chung, công nợ và các vấn đề khác: Các đương sự không yêu cầu, Hội đồng xét xử không xét.
[7] Về án phí: Chị Phạm Thị V phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1, 3 Điều 228, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào quy định tại các điều 19, 51, 53, 56, 57 và Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào quy định tại Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1- Chị Phạm Thị V được ly hôn anh Bùi Văn C;
2- Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị V được nuôi dưỡng con chung Bùi Hiểu L, sinh ngày 09-6-2012 và Bùi Tuấn K, sinh ngày 02-8-2014; anh Bùi Văn C được nuôi dưỡng con chung Bùi Phú C1, sinh ngày 28-12-2006 đến khi các con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3- Về án phí: Chị Phạm Thị V phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 0017636 ngày 07 tháng 6 năm 2021, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, chị V đã nộp đủ án phí.
4- Về quyền kháng cáo bản án:
Chị Phạm Thị V, anh Bùi Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự./.
Bản án 65/2021/HNGĐ-ST ngày 25/08/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 65/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về