Bản án 65/2020/LHST ngày 30/12/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2020/LHST NGÀY 30/12/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Hôm nay, ngày 30 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 522/2020/TLST- HNGĐ ngày 14 tháng 9 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2020/QĐXX-ST ngày 15 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Tống Thị Thanh T – sinh năm 1977 (có mặt) Địa chỉ: khối 10, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

2. Bị đơn: Anh Đặng Anh S – sinh năm 1976 (vắng mặt) Địa chỉ khối 10, phường Quán Bàu, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

Hiện đang chấp hành Quyết định xử phạt hành chính tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc số 1 tỉnh Nghệ An tại xóm 1, xã Nghĩa Đức, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ vào đơn xin ly hôn ngày 31/7/2020 và những lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà hôm nay của chị Tống Thị Thanh T thì: chị Tống Thị Thanh T và anh Đặng Anh S kết hôn với nhau vào năm 2000, hôn nhân tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đông Vĩnh, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 15/12/2000. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thiếu quan tâm chăm sóc nhau, anh S hay đánh bạc sau đó vi phạm pháp luật hiện đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc số 1 tỉnh Nghệ An nên mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Nay chị T thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với anh Đặng Anh S để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên là Đặng Thị Minh A - sinh ngày 04/5/2001 và Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006. Nay ly hôn cháu Đặng Thị Minh A đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết và có nguyện vọng giao con chung là Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Anh Đặng Anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay anh Đặng Danh S vắng mặt nhưng theo bản tự khai anh S trình bày: Anh S thừa nhận thời gian kết hôn, thời gian vợ chồng mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn, thời gian vợ chồng sống ly thân như chị T trình bày là đúng. Nay chị T làm đơn xin ly hôn anh S thấy tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên là Đặng Thị Minh A - sinh ngày 04/5/2001 và Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006. Nay ly hôn cháu Đặng Thị Minh A đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết và có nguyện vọng giao con chung là Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Về tài sản: Vợ chồng tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa đại diện VKS nhân dân thành phố Vinh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án đến nay như sau: Thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, thu thập chứng cứ, chuyển hồ sơ cho VKS nhân dân thành phố Vinh đầy đủ, đúng quy định pháp luật, các đương sự tham gia tố tụng thực hiện đúng quy định đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của họ.

Về nội dung vụ án: Về tình cảm vợ chồng chị T, anh S kết hôn năm 2000, hôn nhân tự nguyện tìm hiểu, hợp pháp. Vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, không tin tưởng nhau, anh S vi phạm pháp luật phải chấp hành quyết định hành chính tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc số 1 tỉnh Nghệ An. Quá trình giải quyết vụ án anh S có bản tự khai và có đơn xin xét xử vắng mặt nhất trí ly hôn. Như vậy, chứng tỏ tình trạng sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần xử cho chị T được ly hôn anh S .

Về con chung: Vợ chồng có hai con chung tên là Đặng Thị Minh A - sinh ngày 04/5/2001 và Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006. Nay ly hôn cháu Đặng Thị Minh A đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết chị T và anh S đều có nguyện vọng giao con chung Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét đề nghị của chị T và anh S phù hợp pháp luật, đảm bảo quyền lợi cho cháu Thư nên chấp nhận thỏa thuận của chị T , anh S và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh S do chị T không yêu cầu.

Về quan hệ tài sản: chị T và anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh S. Anh S đã viết bản tự khai và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bản thân anh S đang chấp hành Quyết định xử phạt hành chính tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc số 1 tỉnh Nghệ An tại xóm 1, xã Nghĩa Đức, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An. Do vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải được nên căn cứ vào mục 4, phần II Nghị quyết số 03 ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; khoản 2 điều 207 và khoản 3 điều 228 BLTTDS để giải quyết vụ án.

[2] Về nội dung: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Tống Thị Thanh T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về quan hệ tình cảm: Chị T và anh S kết hôn năm vào năm 2000, hôn nhân tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Đông Vĩnh, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An vào ngày 15/12/2000, như vậy hôn nhân của họ là hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thiếu quan tâm chăm sóc nhau, anh S hay đánh bạc sau đó vi phạm pháp luật hiện đang cai nghiện tại Cơ sở cai nghiện bắt buộc số 1 tỉnh Nghệ An nên mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Nay chị T thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn với anh S để ổn định cuộc sống. Anh S cũng thừa nhận tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí ly hôn. Như vậy, chứng tỏ tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Cần chấp nhận yêu cầu của chị T cho chị T được ly hôn anh S.

[2.2] Về quan hệ con chung: Vợ chồng có hai con chung tên là Đặng Thị Minh A - sinh ngày 04/5/2001 và Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006. Nay ly hôn cháu Đặng Thị Minh A đã đủ tuổi trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án giải quyết chị T và anh S đều có nguyện vọng giao con chung Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Xét việc giao con chưa thành niên cho người nào trực tiếp nuôi dưỡng là tùy thuộc vào sự phát triển mọi mặt của các cháu. Các bên thống nhất về việc giao con chung và cấp dưỡng nuôi con nên cần chấp nhận. Giao cháu Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006 cho chị Tống Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ tuổi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho anh S do chị T không yêu cầu.

[2.3] Về quan hệ tài sản: Chị Tống Thị Thanh T và anh Đặng Anh S tự thỏa thuận phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét. Chị T, anh S được quyền khởi kiện vụ án khác về chia tài sản chung khi có yêu cầu.

[2.4] Về án phí: chị Tống Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

 QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều 28; điều 147; khoản 4 điều 207; khoản 3 điều 228; điều 271; khoản 1 điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về lệ phí, án phí xử:

- Về quan hệ tình cảm: Xử cho chị Tống Thị Thanh T được ly hôn anh Đặng Anh S.

- Về quan hệ con chung: Giao con chung là Đặng Minh T – sinh ngày 21/08/2006 cho chị Tống Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con đủ tuổi trưởng thành. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị T cho anh S do chị T không yêu cầu.

Anh Đặng Anh S được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cấm.

- Về quan hệ tài sản: Chị T, anh S được quyền khởi kiện vụ án khác khi có yêu cầu.

Về án phí: Chị Tống Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí LHST nhưng được trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí tại chi cục thi hành án thành phố Vinh theo BL số 0001095 ngày 11/9/2020).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án chị T có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An. Anh S được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

416
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/LHST ngày 30/12/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:65/2020/LHST
Cấp xét xử:Giám đốc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về