Bản án 65/2020/HSST ngày 28/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 65/2020/HSST NGÀY 28/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 5 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2020/HSST ngày 12 tháng 5 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2020/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 5 năm 2020, đối với:

Bị cáo Vũ Văn T, sinh ngày 09/01/2003.

HKTT: Thôn Thất Gian, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn Tiến, sinh năm 1982 và bà Ngô Thị Hoa (đã chết); Gia đình bị cáo có 4 anh em, bị cáo là thứ nhất;

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/02/2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt tại phiên tòa).

Người đại diện hợp pháp của bị cáo:

Ông Vũ Văn Tiến, sinh năm 1982. (có mặt) HKTT: Thôn Thất Gian, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Ngưi bào chữa: Ông Trần Thọ Đức. (có mặt) Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bắc Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vũ Văn T sinh ngày 09/01/2003, HKTT: Thôn Thất Gian, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh là đối tượng sử dụng ma túy.

Khoảng 23 giờ ngày 28/02/2020, T đang ở thôn Mao Dộc, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh có Tuấn là bạn quen biết ngoài xã hội điện thoại rủ lên quán Karaoke Like ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh hát Karaoke, T đồng ý. Khoảng 05 phút sau, Tuấn đi xe mô tô đến thôn Mao Dộc đón và đưa T lên phòng số 3, tầng 3 quán Karaoke Like để hát Karaoke. Tại đây, T gặp Phạm Đức Dũng sinh năm 1991, HKTT: Thôn Liên Hiệp, xã Hóa Quỳ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa; Đào Ngọc Bình sinh năm 1992, HKTT: Thôn Châu Cầu, xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; Vũ Thị Huyền sinh ngày 08/9/2003, HKTT: Khu 8, phường Yên Hải, thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh; Hoàng Thị Linh sinh năm 2000, HKTT: Thôn Thuận, xã Phú Nhuận, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và Nguyễn Thị Ngọc Quyền sinh năm 1995, HKTT: Thôn Đa Cấu, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh là bạn của Tuấn đang hát Karaoke. Hát khoảng 15 phút thì Dũng lấy ma túy của mình ra sử dụng, sau đó Dũng để trên bàn thì cả bọn vừa hát vừa sử dụng.

Hát khoảng 15 phút, T gọi điện thoại cho Lò Thị Khánh Huyền sinh năm 2001, HKTT: Bản Tu Cơn, xã Chiềng Sinh, huyện Tuần Giáo, tỉnh Cao Bằng là bạn của T đến hát Karaoke cùng, khoảng 10 phút sau Khánh Huyền đi một mình đến hát cùng nhóm của T. Hát được khoảng hơn 01 tiếng, Tuấn rủ T đi mua ma túy kẹo về sử dụng, T đồng ý và rủ Khánh Huyền đi cùng. Sau đó, Tuấn điều khiển xe mô tô của Tuấn đèo T và Khánh Huyền đến khu sinh thái Tây Hồ thuộc thôn Mao Trung, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ mua ma túy. Khi đến đầu khu sinh thái Tây Hồ, Tuấn dừng xe đưa cho T 2.000.000 đồng, T cầm tiền rồi một mình đi bộ vào trong khu sinh thái Tây Hồ gặp một người đàn ông không quen biết khoảng 35 tuổi, T hỏi người đàn ông „„Anh có kẹo không? để em bốn viên”, người đàn ông nói „„Có, một triệu tám”, T đồng ý đưa cho người đàn ông 1.800.000 đồng, người đàn ông cầm tiền và đưa cho T 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa 04 viên nén hình trái tim màu cam. T cầm giữ ở tay phải rồi đi bộ ra chỗ Tuấn, Tuấn biết T mua được ma túy nên điều khiển xe mô tô đèo T và Khánh Huyền quay lại quán Karaoke Like để sử dụng, khi đến cửa quán Like Tuấn bảo T và Khánh Huyền lên phòng hát trước để Tuấn đi đón bạn, sau đó Tuấn điều khiển xe mô tô đi đâu T không biết, T và Khánh Huyền vào quán chuẩn bị lên phòng hát, lúc này khoảng 02 giờ 10 phút ngày 29/02/2020 thì bị Công an huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh phối hợp Công an xã Phương Liễu, huyện Quế Võ bắt quả tang thu giữ vật chứng và niêm phong theo quy định.

Ngày 29/02/2020, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ đã trưng cầu giám định vật chứng thu giữ ở trên.

Tại bản Kết luận giám định số: 201/KLGĐMT-PC09 ngày 02/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: 04 viên nén hình trái tim màu cam được niêm phong trong phong bì thư có khối lượng 1,4539 gam; Là ma túy; Loại ma túy: MDMA. Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ, Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 59/CT-VKSQV ngày 12/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Vũ Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Vũ Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91; Điều 101 Bộ Luật hình sự xử phạt: Vũ Văn T từ 14 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/02/2020. Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh và 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ nhựa. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 200.000 đồng của bị cáo T dùng để mua ma túy nhưng còn thừa và 01 tờ tiền poolyme mệnh giá 20.000 đồng (dụng cụ để sử dụng ma túy).

Bị cáo Vũ Văn T nhận tội, không có ý kiến tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội. Người đại diện hợp pháp của bị cáo là ông Vũ Văn Tiến nhất trí với lời khai của bị cáo tại phiên tòa và cũng không có ý kiến gì khác chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử nhẹ cho bị cáo. Người bào chữa nhất trí với tội danh mà Viện kiểm sát truy tố đối với bị cáo, nhất trí với điều khoản luật mà Viện kiểm sát đề nghị. Người bào chữa chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến tình tiết bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, xem xét đến hoàn cảnh của bị cáo mẹ mất sớm, bố lại sức khỏa yếu để áp dụng Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự, xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo nhanh chóng cải tạo tốt trở về với gia đình, cộng đồng và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Văn T tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang; phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được tại hiện trường, lời khai của những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xác định được: Hồi 02 giờ 20 phút, ngày 29/02/2020, tại quán Karaoke Like thuộc thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Công an huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh phối hợp với Công an xã Phương Liễu, huyện Quế Võ bắt quả tang Vũ Văn T có hành vi tàng trữ trái phép trên người 1,4539 gam ma túy MDMA với mục đích để sử dụng. Như vậy, thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý, gây tác hại lớn về nhiều mặt cho xã hội. Tệ nạn ma tuý làm ảnh hưởng đến các chính sách phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước; việc đấu tranh với các tội phạm về ma tuý hiện nay là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách để bài trừ tệ nạn này. Bất chấp sự ngăn cấm của pháp luật, bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma túy. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay làm gia tăng tệ nạn ma tuý trên địa bàn huyện Quế Võ. Chính vì vậy phải đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm khắc, phạt bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn, hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo khi phạm tội chưa đủ tuổi thành niên do vậy cần áp dụng quy định tại Điều 91 của Bộ luật hình sự để xem xét xử phạt nhẹ hơn so với người đã thành niên phạm tội với mức độ tương tự.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo chưa đủ tuổi thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Liên quan đến vụ án có các đối tượng; Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Vũ Văn T, T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau. Đối với người thanh niên theo Vũ Văn T khai đã rủ và cùng T đi mua ma túy về sử dụng, T chỉ biết tên là Tuấn ở xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, còn Huyền, Khánh Huyền và Quyền cũng không biết địa chỉ cụ thể của Tuấn. Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ xác minh trên địa bàn xã Phượng Mao có đối tượng Nguyễn Đình Tuấn sinh năm 1998, hiện Tuấn không có mặt tại địa phương. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau. Đối với Phạm Đức Dũng là người khi hát Karaoke đã bỏ ma túy ra sử dụng. Quá trình lấy lời khai tại trụ sở Công an xã Phương Liễu, huyện Quế Võ lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã xác minh trên địa bàn xã Hóa Quỳ, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa không có ai có tên, tuổi và lý lịch như Dũng đã khai nên tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau. Đối với Đào Ngọc Bình là người khi hát Karaoke có sử dụng ma túy. Quá trình lấy lời khai tại trụ sở Công an xã Phương Liễu, huyện Quế Võ lợi dụng sơ hở đã bỏ trốn. Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ xác minh trên địa bàn xã Châu Phong, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh không có ai có tên, tuổi và lý lịch như Bình đã khai nên tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ được sẽ đề nghị xử lý sau. Đối với Vũ Thị Huyền, Lò Thị Khánh Huyền, Hoàng Thị Linh, Nguyễn Thị Ngọc Quyền đến quán Like hát Karaoke đã tự ý lấy ma túy mà Phạm Đức Dũng để trên bàn tại phòng hát sử dụng. Công an huyện Quế Võ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp pháp luật. Đối với Trần Việt Dũng, Trần Thị Chuyên và Hà Bá Lám là quản lý quán Karaoke Like. Dũng, Chuyên và Lám không biết việc T và bạn của T đến quán hát Karaoke và có sử dụng trái phép chất ma túy. Công an huyện Quế Võ không xử lý mà nhắc nhở là phù hợp pháp luật. Đối với Nguyễn Thị Hà là chủ quán và là người đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của quán Karaoke Like đã vi phạm các quy định về điều kiện kinh doanh. Công an huyện Quế Võ đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Hà là phù hợp pháp luật.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Mẫu vật còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ nhựa do đã hết giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 200.000 đồng của bị cáo T và 01 tờ tiền poolyme mệnh giá 20.000 đồng (dụng cụ để sử dụng ma túy).

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 91; Điều 101 của Bộ Luật hình sự. Điều 106, Điều 136, Điều 329 Bộ Luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Xử phạt: Vũ Văn T 14 (Mười bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/02/2020. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để đảm bảo thi hành án.

Về xử lý vật chứng vụ án: Tịch thu tiêu huỷ số mẫu vật còn lại sau giám định trong phong bì thư có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh, và 01 đĩa sứ hình tròn màu trắng, 01 thẻ nhựa. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 200.000 đồng của bị cáo T và 01 tờ tiền poolyme mệnh giá 20.000 đồng (Theo biên bản giao vật chứng ngày 12/5/2020 giữa Công an huyện Quế Võ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ).

Về án phí: Bị cáo Vũ Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

323
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HSST ngày 28/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về