Bản án 65/2020/HS-PT ngày 07/09/2020 về tội gây rối trật tự công cộng

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 65/2020/HS-PT NGÀY 07/09/2020 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 07 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 52 /2020/TLPT-HS, ngày 26 tháng 6 năm 2020 đối với bản án hình sự sơ thẩm số 27/2020/HS-ST ngày 13/05/2020 của Tòa án nhân dân huyện H.

Do có kháng cáo của các bị cáo:

1/ NGUYỄN HỮU T (Tên gọi khác: Minh Đen) - Sinh năm: 1996; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không;Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông: Nguyễn Hữu D và con bà: Bùi Thị K; Gia đình có 06 anh em, T là con lớn nhất; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt ngày 15/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 10/12/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2/ VÕ QUỐC Đ (Tên gọi khác: Tư) - Sinh năm 1996; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: khu phố B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Võ Văn T, con bà: Đinh Thị C. Gia đình có 03 chị em, Đ là con nhỏ nhất; Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị bắt ngày 15/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 07/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3/ NGUYỄN VĂN L (Tên gọi khác: Tư Hít) - Sinh năm 1993; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: thôn L, xã H, huyện T, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 06/12; Con ông: Nguyễn Văn L (chết) và con bà: Lê Thị L. Vợ: Lê Thị Minh G, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

Ngày 05/7/2018, bị Công an huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”, hình thức: phạt tiền, mức phạt: 2.000.000đ.

Bị cáo bị bắt ngày 15/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 27/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4/ NGUYỄN DUY P (Tên gọi khác: Phối Bờm) - Sinh năm 1985; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: thôn T, xã X, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 11/12; Con ông: Nguyễn Văn X (chết) và con bà: Trương Thị N; Vợ: Nguyễn Thị Th. Có hai con, nhỏ nhất sinh năm 2013, lớn nhất sinh năm 2014. Gia đình có 08 anh em, P là con thứ bảy. Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 23/12/2005, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 07 năm tù, về tội “Cố ý gây thương tích”; 01 năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” tổng hợp hình phạt là 08 năm tù; đã thi hành xong bản án, đã được xóa án tích.

Bị can bị bắt ngày 26/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 27/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5/ NGUYỄN TẤN H - Sinh năm 1992; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: Khu phố C, phường P, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông: Nguyễn Văn C và con bà: Hồ Thị H. Vợ : Đoàn Lâm H, con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 08/11/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, về tội “Cố ý gây thương tích”, đã thi hành xong bản án, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt ngày 15/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lãnh ngày 07/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6/ LÊ VĂN TR (Tên gọi khác: Thổ Địa) - Sinh năm 1994; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ sơn nước; Trình độ học vấn: 6/12; Con ông: Lê Văn H và con bà: Đặng Thị T. Vợ: Nguyễn Thị Hồng T; Có một con, sinh năm 2012. Gia đình có 04 anh em, Tr là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 21/12/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xử phạt 04 năm tù, về tội “Cướp tài sản”, đã thi hành xong bản án và đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt ngày 19/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lãnh ngày 27/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

7/ NGUYỄN QUỐC B (Tên gọi khác: Mão) - Sinh năm 1997; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: thôn Ung Chiếm, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông: Nguyễn Văn S và con bà: Nguyễn Thị D. Vợ : Nguyễn Thị Thanh T, con sinh năm 2020; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:Ngày 23/6/2014, bị Công an xã H, huyện H xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”, hình thức: phạt tiền, mức phạt: 1.250.000đ.

Bị cáo bị bắt ngày 02/10/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 27/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8/ NGUYỄN VĂN TH (Tên gọi khác: Thành lùn) - Sinh năm 1989; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ sơn nước; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Nguyễn Văn H (chết) và con bà: Nguyễn Thị S; Vợ: Phạm Thị Kim H; Có hai con, lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2015. Gia đình có 03 anh em, Th là con lớn nhất. Tiền sự: Không.

Ngày 20/8/2007, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xử phạt 09 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 15/7/2009.

Ngày 13/9/2012, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Thuận xử phạt 10 tháng tù về tội “Bắt giữ người trái pháp luật”, đã chấp hành xong hình phạt ngày 17.3.2013.

Bị cáo bị bắt ngày 16/10/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 13/01/2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

9/ HUỲNH VĂN H (Tên gọi khác: Hậu Huỳnh) - Sinh năm 1995; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: khu phố 2, phường X, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 09/12; Con ông : Huỳnh Văn T và con bà: Châu Thị S. Gia đình có 02 chị em, H là con nhỏ; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị can bị bắt ngày 15/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 07/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

10/ NGUYỄN VĂN H1 (Tên gọi khác: Khỉ) - Sinh năm 1995; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận; Nơi cư trú: thôn U, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Sửa xe; Trình độ học vấn: 8/12; Con ông: Nguyễn Văn H và con bà: Huỳnh Thị H. Vợ: Nguyễn Thị T; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 27/9/2019, thay đổi biện pháp ngăn chặn, cho gia đình bảo lĩnh ngày 27/11/2019. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2020/QĐXXPT-HS, ngày 03 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 28/2020/QĐ-PT, ngày 27 tháng 8 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận.

Người bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn H: Luật sư Bùi Văn T Đoàn Luật sư tỉnh Bình Thuận.

Ngoài ra còn có 18 bị cáo khác không kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 14 giờ 45 phút ngày 08/9/2019, tại tiệm bắn cá Thiên Vương thuộc xã L, thành phố P có xảy ra vụ gây thương tích và đập phá tài sản do một nhóm khoảng 08 đối tượng thực hiện. Ngay sau đó, Nguyễn Thành Ph là người quản lý tiệm bắn cá Thiên Vương và Nguyễn Văn H đến tiệm bắn cá để kiểm tra tình hình; Nguyễn Thành Ph nghi ngờ nhóm của Nguyễn Duy Kh (Khánh Beo) và Nguyễn Văn T (Vịt) thực hiện. Nguyễn Thành Ph điện thoại gặp Nguyễn Hữu T (Minh Đen) nói: “Có nhóm của thằng Vịt với thằng Kh xuống vựa tìm rồi lên chỗ máy bắn cá đập, chém người”, rồi tiếp tục gọi điện thoại gặp Nguyễn Đình Tr nói việc tại tiệm bắn cá Thiên Vương bị đập phá tài sản.

Nghe tin trên, Nguyễn Hữu T chở Nguyễn Văn L (Tư Hít) đến tiệm bắn cá Thiên Vương. Tại đây, Nguyễn Thành Ph, Nguyễn Văn H, Nguyễn Hữu T và Nguyễn Văn L rủ nhau đến xã H để đánh lại nhóm Nguyễn Văn T và Nguyễn Duy Kh. Nguyễn Thành Ph lấy một cây súng dài khoảng 60cm, lên xe mô tô (không xác định được biển số) do Nguyễn Văn H chở theo đường Quốc lộ 1A, đến nhà thờ Kim Ngọc, rẽ phải theo đường Kim Ngọc – Phú Hài, đến quán nước của Nguyễn Thị Thanh Thảo, ở thôn T, xã H. Tại đây, có NGUYỄN VĂN H1 (Khỉ), Lê Văn Q (Duy Lớn) và Võ Văn D (Di nhỏ), đang ngồi uống nước; Nguyễn Thành Ph lấy tay chỉ vô và nói “Nó kìa, nó kìa”, bắn một phát súng hướng lên trời thì NGUYỄN VĂN H1, Lê Văn Q và Võ Văn D sợ hãi nên bỏ chạy. Sau đó, Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Thành Ph về lại vựa thanh long Hiệp Tiến, ở xã L, thành phố P. Trong lúc đó, Nguyễn Hữu T điện thoại gặp Đỗ Đức V (Mười Vui) nói: “Đám Kh Beo kéo người đến tiệm bắn cá của bọn em đập phá và chém người”, tiếp tục điện thoại cho Võ Quốc Đ (Tư) và nói: “Nhờ gom quân giúp để đụng với đám thằng Vịt với thằng Kh Beo”. Võ Quốc Đ tập hợp các đối tượng: Nguyễn Tấn H, Huỳnh Văn H (Hậu Huỳnh), Nguyễn Văn Đ, Huỳnh Văn R, Nguyễn Đăng Kh (Bo), Huỳnh Thanh H, Huy và Vinh (chưa xác định được lai lịch). Võ Quốc Đ bảo Nguyễn Đăng Kh và Huy điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-868.60 chở nhau đến chung cư Phú Tài, vào phòng ở của Võ Quốc Đ lấy một bao hung khí là kiếm tự tạo, mã tấu rồi tập trung tại tiệm sửa xe của Đinh Văn Tr. Nghe Võ Quốc Đ nói lên Hàm Thắng đánh nhau Đinh Văn Tr xin đi theo. Võ Quốc Đ cùng các đối tượng trên điều khiển năm xe mô tô chở theo bao hung khí chạy ra đường Quốc lộ 1A để lên hướng xã H. Cùng lúc đó, Đỗ Đức V điều khiển xe ô tô, biển số 86A-098.96 đến tiệm bắn cá Thiên Vương, thì cùng Nguyễn Hữu T, Nguyễn Thành Ph, Nguyễn Văn L, Nguyễn Văn H đến vựa thanh long Hiệp Tiến gặp khoảng 20 đối tượng khác đã đứng đợi sẵn. Riêng, Nguyễn Đình Tr khi cùng Trần Văn H(Quậy) và Nguyễn Duy Ph(Phối Bờm) trên đường đi dự đám cưới tại Khách sạn Bình Minh về, nghe Nguyễn Thành Ph gọi điện thoại nói tiệm bắn cá bị quậy phá nên bảo cùng nhau lên xã H tìm nhóm của Nguyễn Văn T và Nguyễn Duy Kh để đánh. Nguyễn Duy Ph điều khiển xe ô tô bán tải, biển số 86C-055.97 chở Nguyễn Đình Tr và Trần Văn H đến Vựa thanh long Hiệp Tiến để gặp Nguyễn Thành Ph. Tại đây, có một đối tượng (chưa xác định được nhân thân) mang nhiều hung khí (kiếm tự tạo, mã tấu) bỏ lên thùng xe ô tô, biển số 86C-055.97. Sau đó, Nguyễn Văn L bảo Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-468.00 chở về nhà ở xã H lấy súng bắn đạn hoa cải rồi quay lại để cùng nhau đến điểm hẹn tại khu vực cầu Bến Lội, thuộc xã H. Khi tất cả gần 40 đối tượng dừng lại gặp nhau trên đường Quốc lộ 1A, trước Auto Trường Hải, thuộc xã H, từng đối tượng lấy một kiếm tự tạo, hoặc một mã tấu trên xe ô tô bán tải, biển số 86C-055.97 và trong bao do H và Nguyễn Đăng Kh chở đến. Sau đó, Nguyễn Duy Ph điều khiển xe ô tô, biển số 86C-055.97 chở Trần Văn H và Nguyễn Đình Tr; Đỗ Đức V điều khiển xe ô tô, biển số 86A- 098.96 đi một mình; Nguyễn Hữu T điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-468.00 chở Nguyễn Văn L cầm theo một súng bắn đạn hoa cải; Huỳnh Thanh H điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-899.64 chở Nguyễn Văn Đ cầm theo một dao cán dài; Vinh điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-556.71 chở Võ Quốc Đ cầm theo một dao cán dài; Nguyễn Đăng Kh điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-868.60 chở H và bao hung khí; Nguyễn Tấn H điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-900.72 chở Huỳnh Văn H ngồi sau cầm theo một kiếm tự tạo của Huỳnh Văn H và một dao cán dài của Nguyễn Tấn H; Huỳnh Văn R điều khiển xe mô tô, biển số 86C1-496.71 chở Đinh Văn Tr cầm theo một mã tấu; Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô (chưa xác định biển số) chở Nguyễn Thành Ph cầm theo một súng bắn đạn hoa cải. Cùng đi chung còn có Hà Thái H (Bé Dựt, Quậy Nhỏ, Cường Mập, Thạnh và Èm (chưa xác định được lai lịch). Tất cả số người trên chở nhau theo đường Quốc lộ 1A đến nhà thờ Kim Ngọc, rẽ phải theo đường Kim Ngọc – Phú Hài.

Cùng thời gian trên, tại khu vực thôn T, xã H, Nguyễn Duy Kh nghe tin là có người nổ súng ở quán nước của Nguyễn Thị Thanh Thảo thì biết được nhóm của Nguyễn Thành Ph sẽ kéo đến để đánh nhau nên Nguyễn Duy Kh chuẩn bị một khẩu súng ngắn và một khẩu súng dài, sau đó rủ thêm Trần Văn H (Bảy Hóng), Nguyễn Minh S (Chân Chì), Nguyễn Phi Ph (Nhí Ba Mươi), Nguyễn Văn T (Thành lùn), Thành cao, Tí, Đức, Phong, Nghĩa, Hùng, Tân (chưa xác định được lai lịch) tập trung tại nhà của Trần Văn H. Tại đây, Trần Văn H lấy ra thêm một khẩu súng ngắn và bên cạnh đó có để nhiều hung khí như mỏ gãy, kiếm tự chế, dao cán dài (mác), mỗi người lấy một loại hung khí. Nguyễn Duy Kh và Trần Văn H cầm súng ngắn, Nguyễn Phi Ph cầm súng dài, sau đó, Nguyễn Duy Kh điều khiển một xe mô tô (không xác định được chủ sở hữu và biển số), Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô, biển số 86B3-748.14, còn tất cả những người còn lại đi bộ đến quán cà phê của Lê Gia An (Tròn) cách đó khoảng 100m và cách Ngã ba nhà thờ Kim Ngọc khoảng 01 Km. Tại đây, có thêm Lê Văn Tr (Thổ Địa), Phạm T(Đen Nhỏ), Nguyễn Duy Kh (Khánh Củ Mì), Huỳnh Quốc H(Ìn), Nguyễn Thanh H(Xin), NGUYỄN VĂN H1 (Khỉ), Huỳnh Ngọc Khắc V (Nô), Nguyễn Quốc B(Mão) và Trần Phúc H. Sau đó, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô, biển số 86B3 – 533.82 từ nhà của mình đến đây tập hợp với số thanh niên trên. Lúc này, Nguyễn Duy Kh nói với số người trên là sẽ có đánh nhau thì tất cả lấy mỗi người một hung khí (kiếm tự chế, rựa, mõ gãy, dao cán dài ở quán của Lê Gia An, không xác định được là do ai mang đến để sẵn để cùng tham gia đánh nhau. Nguyễn Văn T lấy một mõ gãy, Nguyễn Duy Kh và Trần Văn H cầm súng ngắn, Nguyễn Phi Ph cầm súng dài, Nguyễn Minh S cầm một dao cán dài, NGUYỄN VĂN H1 cầm một rựa, Trần Phúc H cầm một mõ gãy, Nguyễn Quốc Bcầm một mõ gãy, Huỳnh Quốc Hcầm một rựa, Nguyễn Thanh Hcầm một dao cán dài, Nguyễn Duy Kh (Khánh Củ Mì) lấy một mõ gãy, Nguyễn Văn T cầm một kiếm, Lê Văn Tr cầm một kiếm, riêng Huỳnh Ngọc Khắc V nhặt hai cục đá bên hông nhà Lê Gia An cầm trên tay để hỗ trợ.

Lúc này, nhóm của Nguyễn Thành Ph đi đến Ngã ba nhà thờ Kim Ngọc thì rẽ phải đi về hướng Phú Hài, khi đến trước Công ty “Dream Door”, thuộc thôn T, xã H, cách quán Lê Gia An khoảng 100m thì thấy nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T đứng chặn đường nên dừng lại. Nguyễn Văn L xuống xe cầm súng bắn đạn hoa cải bắn về phía nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T nhưng không nổ, Nguyễn Văn L tiếp tục cầm súng xông đến rượt bắn. Nguyễn Văn H điều khiển xe mô tô (không xác định được biển số) chở Nguyễn Thành Ph ngồi phía sau cầm súng chạy vượt lên trên, Nguyễn Thành Ph xuống xe chỉa súng bắn vào nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T; Nguyễn Văn Đ, Võ Quốc Đ và Nguyễn Tấn H cầm dao cán dài, Huỳnh Văn H cầm kiếm, Đinh Văn Tr cầm mã tấu, Èm và Bé Dựt cầm theo hung khí cùng nhau xông lên theo sau Nguyễn Thành Ph đuổi đánh nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T. Còn Huỳnh Thanh H, Huỳnh Văn R, Nguyễn Đăng Kh, Nguyễn Duy Ph,Trần Văn H và Đỗ Đức V thì vẫn đứng lại ở lại phía sau hai xe ô tô. Khi nhóm của Nguyễn Thành Ph rượt lên thì Nguyễn Duy Kh, Trần Văn H, Nguyễn Phi Ph dùng súng cầm trên tay bắn về phía nhóm Nguyễn Thành Ph, còn Nguyễn Văn T cầm một mõ gãy, Nguyễn Minh S cầm một dao cán dài, NGUYỄN VĂN H1 cầm một rựa, Trần Phúc H cầm một mõ gãy, Nguyễn Quốc B cầm một mõ gãy, Huỳnh Quốc H cầm một rựa, Nguyễn Thanh H cầm một dao cán dài, Nguyễn Duy Kh (Khánh Củ Mì) cầm một mõ gãy, Nguyễn Văn T cầm một kiếm, Lê Văn Tr cầm một kiếm và Huỳnh Ngọc Khắc V cầm hai cục đá xông lên chém, ném và rượt đuổi lại, nhóm của Nguyễn Thành Ph bỏ chạy lui về núp sau xe ô tô, Nguyễn Thành Ph bị rơi súng cũng chạy quay lại núp sau xe ô tô. Nguyễn Duy Kh, Trần Văn H, Nguyễn Phi Ph, Nguyễn Văn T, NGUYỄN VĂN H1, Trần Phúc H, Nguyễn Quốc B, Huỳnh Quốc H, Nguyễn Thanh H, Nguyễn Duy Kh (Khánh Củ Mì), Lê Văn Tr cầm theo hung khí đuổi nhóm của Nguyễn Thành Ph đến trước công ty Dream Door, cách nhóm của Nguyễn Thành Ph khoảng 80m thì dừng lại; còn Nguyễn Văn T cầm kiếm, Nguyễn Minh S cầm dao cán dài và Huỳnh Ngọc Khắc V cũng cầm đá chạy đuổi theo sau để hỗ trợ. Trên đường chạy về chỗ xe ô tô, biển số 86A-098.96 thì Nguyễn Văn L bị một người trong nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T bắn một viên đạn trúng sau đầu, Đỗ Đức V đang đứng gần xe ô tô này cũng bị trúng đạn ở vùng trán. Nguyễn Văn L chạy về đến xe ô tô thì đưa súng bắn đạn hoa cải cho Đỗ Đức V cầm. Nguyễn Duy Kh, Trần Văn H, Nguyễn Phi Ph bắn một lúc thì hết đạn, Đỗ Đức V bị trúng đạn tức giận nên cầm súng bắn đạn hoa cải xông lên rượt đuổi nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T. Lúc này, ngoài Nguyễn Văn Đ, Võ Quốc Đ và Nguyễn Tấn H cầm dao cán dài, Huỳnh Văn H cầm kiếm, Đinh Văn Tr cầm mã tấu, Nguyễn Duy Ph, Trần Văn H và Nguyễn Hữu T, mỗi người lấy 01 kiếm trên xe ô tô bán tải, cùng nhau xông lên phía sau Đỗ Đức V đuổi đánh nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T. Nhóm của Nguyễn Duy Kh và Nguyễn Văn T bỏ chạy tán loạn, nhóm của Nguyễn Thành Ph không đuổi đánh được nữa bỏ về, hung khí tự chế bỏ lại tất cả trên xe ô tô bán tải, sau đó tất cả kéo nhau về lại vựa thanh long Hiệp Tiến.

Hậu quả: Nguyễn Văn L bị thương tích vùng chẩm (P), Đỗ Đức V bị thương tích vùng trán, đuôi mắt trái, một số đối tượng khác trong nhóm của Nguyễn Văn L bị thương ở tay, chân do bị ném đá. Nguyễn Minh S bị thương ở chân trong lúc bỏ chạy.

Kết luận giám định số: 1148/C09B ngày 05/02/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

- Khẩu súng dài 88cm, bán súng bằng gỗ là súng được chế tạo thủ công, có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng nằm trong danh mục vũ khí quân dụng.

- 02 (hai) khẩu súng có số hiệu No 871072 và 19TH0693 là súng đồ chơi nguy hiểm, không phải là vũ khí quân dụng và không có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.

- 06 (sáu) viên đạn màu đồng, đầu đạn bằng cao su màu vàng chứa viên đạn bi kim loại hình cầu màu bạc cỡ 6mm, thân đạn rỗng, đít đạn có khắc chữ WINGUN 700 là đạn dùng cho khẩu súng ngắn có số hiệu 19TH0693.

- 01 (một) vỏ đạn màu vàng gắn bọc nhựa màu xanh và 01 viên đạn màu vàng gắn bọc nhựa màu hồng là đạn cỡ 12 (12 gauge) không rõ nước và năm sản xuất, dùng cho các loại súng săn cỡ nòng 12 và dùng cho khẩu súng nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2020/HS-ST, ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H đã xử:

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 318; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm o Khoản 1 Điều 52, Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự (đối với bị cáo Võ Quốc Đ).

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 318; Điểm s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự (đối với bị cáo Nguyễn Hữu T).

Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 318; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự (đối với bị cáo Nguyễn Văn L (Tư Hít), Nguyễn Duy Ph, Huỳnh Văn H, Nguyễn Tấn H, Lê Văn Tr, Nguyễn Quốc B, Nguyễn Văn T, NGUYỄN VĂN H1).

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hữu T (Minh Đen), Võ Quốc Đ (Tư), Nguyễn Văn L (Tư Hít), Nguyễn Duy Ph (Phối Bờm), Nguyễn Tấn H, Lê Văn Tr (Thổ địa), Nguyễn Quốc B (Mão), Nguyễn Văn T (Thành lùn), Huỳnh Văn H (Hậu Huỳnh), NGUYỄN VĂN H1 (Khỉ) phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt:

- Nguyễn Hữu T (Minh Đen) 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 10/12/2019.

- Võ Quốc Đ (Tư) 28 (Hai mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 07/11/2019.

- Nguyễn Văm L (Tư hít) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 11/11/2019 đến ngày 24/02/2020.

- Nguyễn Duy Ph (Phối Bờm) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 26/9/2019 đến ngày 27/11/2019.

- Nguyễn Tấn H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 07/11/2019.

- Lê Văn Tr (Thổ địa) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 19/9/2019 đến ngày 27/11/2019.

- Nguyễn Quốc B (Mão) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 02/10/2019 đến ngày 27/11/2019.

- Nguyễn Văn T (Thành lùn) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 16/10/2019 đến ngày 13/01/2020.

- Huỳnh Văn H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 07/11/2019.

- NGUYỄN VĂN H1 (Khỉ) 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 27/9/2019 đến ngày 27/11/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 15.5.2020, bị cáo Nguyễn Văn L kháng cáo xin được hưởng án treo Ngày 18.5.2020, bị cáo Lê Văn Tr, Nguyễn Quốc B kháng cáo xin được hưởng án treo Ngày 20.5.2020, bị cáo NGUYỄN VĂN H1 kháng cáo xin được hưởng án treo Ngày 21.5.2020, bị cáo Nguyễn Duy Phkháng cáo xin được hưởng án treo Ngày 25.5.2020, bị cáo Nguyễn Tấn H kháng cáo xin được hưởng án treo Ngày 26.5.2020, bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Ngày 27.5.2020, bị cáo Võ Quốc Đ, Huỳnh Văn H kháng cáo xin được hưởng án treo Ngày 28.5.2020, bị cáo Nguyễn Hữu T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; riêng bị cáo Võ Quốc Đ thay đổi yêu cầu kháng cáo, xin giảm nhẹ hình phạt.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn H phát biểu ý kiến và đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự; Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15.5.2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân cho bị cáo Huỳnh Văn H được hưởng án treo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận phát biểu ý kiến và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điểu 355, Điểu 356 Bộ luật Hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay các bị cáo thừa nhận việc Tòa án nhân dân huyện H đã xử bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” là đúng không oan.

[2] Xét kháng cáo của các bị cáo; hội đồng xét xử xét thấy:

Trong khoảng thời gian 16 giờ 55 phút, ngày 08/9/2019 tại thôn T, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận; các đối tượng gồm: Nguyễn Thành Ph, Nguyễn Hữu T, Võ Quốc Đ, Nguyễn Văn L, Nguyễn Đình Tr, Trần Văn H, Nguyễn Duy Ph, Nguyễn Tấn H, Huỳnh Văn H, Nguyễn Văn Đ, Huỳnh Văn R, Đỗ Đức V, Huỳnh Thanh H, Đinh Văn Tr, và Nguyễn Đăng Kh với nhóm của Nguyễn Duy Kh (Khánh Beo), Nguyễn Văn T, Trần Văn H, Nguyễn Phi Ph, Nguyễn Duy Kh (Khánh Củ Mì), Huỳnh Quốc H, Lê Văn Tr, Nguyễn Quốc B, Trần Phúc H, NGUYỄN VĂN H1, Nguyễn Minh S, Nguyễn Thanh H, Nguyễn Văn T, Huỳnh Ngọc Khắc V. Đã sử dụng súng, kiếm tự tạo, mã tấu, mỏ gãy, đá là hung khí nguy hiểm để đuổi đánh nhau trên đường giao thông công cộng, gây náo động khu vực đông dân cư; đã làm hưởng nghiêm trọng đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; gây bất bình, hoang mang trong quần chúng nhân dân tại địa phương.

[3] Do đó, việc Tòa án nhân dân huyện H xử các bị cáo về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo có được như: Sau khi phạm tội các bị cáo đã ra đầu thú, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; riêng bị cáo Huỳnh Văn H, Nguyễn Hữu T đã có thời gian tham gia quân đội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Và xử các bị cáo Nguyễn Văn T Nguyễn Văn L, Lê Văn Tr, Nguyễn Quốc B, NGUYỄN VĂN H1, Nguyễn Tấn H, Huỳnh Văn H, Nguyễn Duy Ph, mỗi bị cáo 02 năm tù, là mức khởi điểm của khung hình phạt;

Đối với các bị cáo Nguyễn Hữu T, Võ Quốc Đ là người rủ rê lôi kéo các bị cáo khác trong nhóm Phan Thiết và là người thực hiện hành vi phạm tội một cách tích cực; riêng đối với Võ Quốc Đ còn có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi dục người dưới 18 tuổi phạm tội” quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; nên mỗi bị cáo bị xử 2 năm 06 tháng tù;

Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với các bị cáo, là đã xem xét cho các bị bị cáo, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả hành vi phạm tội của từng bị cáo, không nặng.

[ 5] Các bị cáo Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt còn các bị cáo khác xin hưởng án treo. Nhưng các bị cáo đều không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới so với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho các bị cáo. Do đó, phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, như Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm tương tự phát sinh trong xã hội, [6] Nên kháng cáo của các bị cáo, cũng như đề nghị của Luật sư sẽ không được chấp, Bản án sơ thẩm vì vậy được giữ nguyên như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tại phiên tòa phúc thẩm.

[7] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bởi các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của các bị cáo: Nguyễn Hữu T, Võ Quốc Đ, Nguyễn Văn L, Nguyễn Duy Ph, Nguyễn Tấn H, Lê Văn Tr, Nguyễn Quốc B, Nguyễn Văn T, Huỳnh Văn H, NGUYỄN VĂN H1;

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 27/2020/HS-ST, ngày 13 tháng 5 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện H.

Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hữu T, Võ Quốc Đ, Nguyễn Văn L, Nguyễn Duy Ph, Nguyễn Tấn H, Lê Văn Tr, Nguyễn Quốc B, Nguyễn Văn T, Huỳnh Văn H, NGUYỄN VĂN H1 đều phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

1. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự ;

Xử phạt: Nguyễn Hữu T 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 10/12/2019.

2. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52, Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Võ Quốc Đ 02 (Hai) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 07/11/2019.

3. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt:

- Nguyễn Văn L 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi, hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 27/11/2019.

- Nguyễn Duy Ph02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án;

nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 26/9/2019 đến ngày 27/11/2019.

- Nguyễn Tấn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 07/11/2019.

- Lê Văn Tr 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 19/9/2019 đến ngày 27/11/2019.

- Nguyễn Quốc B02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án;

nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 02/10/2019 đến ngày 27/11/2019.

- Nguyễn Văn T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 16/10/2019 đến ngày 13/01/2020.

- Huỳnh Văn H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án;

nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 15/9/2019 đến ngày 07/11/2019.

- NGUYỄN VĂN H1 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; nhưng được khấu trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 27/9/2019 đến ngày 27/11/2019.

4. Các bị cáo: Nguyễn Hữu T, Võ Quốc Đ, Nguyễn Văn L, Nguyễn Duy Ph, Nguyễn Tấn H, Lê Văn Tr, Nguyễn Quốc B, Nguyễn Văn T, Huỳnh Văn H, NGUYỄN VĂN H1, mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các phần khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án 07-9-2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2020/HS-PT ngày 07/09/2020 về tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:65/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về