TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN D, TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 65/2019/HSST NGÀY 25/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:
Họ và tên: K’ Tấn Huỳnh Min H; sinh ngày 03/8/2003; tại Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kơ ho; giới tính: Nam; tôn giáo: Tin lành; quốc tịch: Việt Nam; con ông K’ Tấn H và bà Ka T; tiền sự: 03, Ngày 04/3/2019 bị Công an xã Đ xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi Cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác; Ngày 19/3/2019 bị Công an xã Đ xử phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản; Ngày 16/7/2019 bị Ủy ban nhân dân xã Đ Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã thời hạn 06 tháng từ ngày 16/7/2019; tiền án: Không; bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.
-Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Bà Ka T; sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng; là mẹ của K’ Tấn Huỳnh Min H. Có mặt.
-Người bào chữa cho bị cáo: bà Mơ Thiên, Trợ giúp viên - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lâm Đồng.Có mặt.
- Bị hại: Chị B’ Sar T, tên gọi khác: Ka T; sinh năm: 1987; nơi cư trú:
Thôn 3, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
Bà Nguyễn Thị N; sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn 3, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
-Người làm chứng:
1.Bà Nguyễn Thị G; sinh năm 1973; Nơi cư trú: Thôn 3, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.
2.Cháu K’ B, tên gọi khác: M; sinh ngày 24/10/2004; Nơi cư trú: hôn 4, xã Đ, huyện D, tỉnh lâm Đồng. Có mặt.
Người đại diện hợp pháp của người làm chứng cháu K’ B: Bà Ka L, sinh năm 1981; nơi cư trú: Thôn 4, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Là dì của K’ B. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 12h00 ngày 05/8/2019, K’Tấn Huỳnh Min H sau khi chơi game xong thì đi quanh thôn 3 – xã Đ để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi đến nhà bà B’Sar T, phát hiện không có người trông coi, H dùng thanh kim loại mang theo trước đó tháo hàng rào B40 chui vào trong sân, khi đi đến khu vực nhà kho, thấy cửa không khóa nên H mở cửa vào bên trong và phát hiện 01 máy phát cỏ hiệu Robin NB411 màu cam, 01 máy cưa tay hiệu FUJIKAWA 2500 và 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam thì H lén lút lấy mang ra ngoài vị trí hàng rào đã vào lúc trước, rồi mang 01 máy phát cỏ hiệu Robin NB411 màu cam, 01 máy cưa tay hiệu FUJIKAWA 2500 giấu dưới gầm xe rơ mooc của nhà bà Đoàn Thị Xuân (ở thôn 3 – xã Đ) và giấu 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam tại nhà bà Nguyễn Thị G: thôn 3 – xã Đ. Sau đó, K’Tấn Huỳnh Min H mang 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam đến tiệm T mua phế liệu của bà Nguyễn Thị N, thôn 3 – xã Đ bán phế liệu được 30.000 đồng.
Khi quay lại chỗ giấu 02 chiếc máy còn lại, K’Tấn Huỳnh Min H rủ theo K’B tìm chỗ bán 02 chiếc máy còn lại, khi cả hai đang lấy máy tại nơi cất giấu thì bị bà Nguyễn Thị G phát hiện và cả hai bỏ chạy.
Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D K’Tấn Huỳnh Min H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại Kết luận định giá tài sản số 248/KL- HĐĐG ngày 16/8/2019 của Hội đồng định giá huyện D đã xác định giá trị 01 máy phát cỏ hiệu Robin NB411 màu cam giá 2.200.000 đồng, 01 máy cưa tay hiệu FUJIKAWA 2500, giá 2.400.000 đồng và 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam giá 1.700.000 đồng. Tổng cộng trị giá 6.300.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số 65/CTr-VKS ngày 08 tháng 11 năm 2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố, không thắc mắc hay khiếu nại gì về nội dung bản cáo trạng.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên nội dung cáo trạng đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H từ 03 tháng đến 06 tháng tù;
Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D đã T giữ: 01 máy phát cỏ hiệu Robin NB411 màu cam, 01 máy cưa tay hiệu FUJIKAWA 2500 và 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam, đã trả lại cho chủ sở hữu. Tại phiên tòa bị hại là bà B’Sar T không yêu cầu bồi thường gì thêm. Bà Nguyễn Thị N không yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã mua máy cưa tay do bị cáo bán, cần chấp nhận. Do đó không đề nghị xem xét giải quyết.
Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa, đại diện hợp pháp của bị cáo nhất trí với nội dung bản luận tội của Viện Kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Lời nói sau cùng: Bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H xin lỗi người bị hại xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa hôm nay bà Nguyễn Thị Gấm tham gia tố tụng với tư cách người làm chứng vắng mặt, trước đã có lời khai của họ ở cơ quan điều tra. Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng đều yêu cầu vẫn tiến hành xét xử. Hội đồng xét xử quyết định áp dụng Điều 293 Bộ luật tố tụng Hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[3] Bị cáo K’Tấn Huỳnh Min H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Vào khoảng giờ 12 ngày 05/8/2019, K’Tấn Huỳnh Min H đã có hành vi trộm cắp 01 máy phát cỏ hiệu Robin NB411 màu cam, 01 máy cưa tay hiệu FUJIKAWA 2500 và 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam của bà B’Sar T.
Tại Kết luận định giá tài sản số 248/KL- HĐĐG ngày 16/8/2019 của Hội đồng định giá huyện D đã xác định giá trị 01 máy phát cỏ hiệu Robin NB411 màu cam giá 2.200.000 đồng, 01 máy cưa tay hiệu FUJIKAWA 2500, giá 2.400.000 đồng và 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam giá 1.700.000 đồng. Tổng cộng trị giá 6.300.000 đồng.
Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo, lời khai của bị hại và lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các chứng cứ T thập được có trong hồ sơ, đủ căn cứ xét xử bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 đúng như tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát nhân dân huyện D đã truy tố.
[4] Xét hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo biết rõ, việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất hợp pháp là vi phạm pháp luật và sẽ bị nghiêm trị, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại, mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương làm cho nhân dân hoang mang không yên tâm lao động sản xuất và bất bình lên án. Mặc dù tính chất mức độ phạm tội của bị cáo Tộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng trước khi thực hiện phạm tội lần này bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện trở thành người tốt mà vẫn cố ý phạm tội, các biện pháp xử lý vi phạm hành chính không có tác dụng giáo dục răn đe đối với bị cáo. Trong tình hình tội phạm xảy ra ở địa phương có chiều hướng phức tạp, đặc biệt là tội phạm trộm cắp tài sản, do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo và răn đe giáo dục phòng ngừa chung.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo K’Tấn Huỳnh Min H đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phạm tội lần đầu Tộc trường hợp ít nghiêm trọng, khi thực hiện hành vi phạm tội là vị thành niên (16 tuổi 02 ngày) nên áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 91 Điều 101 BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử lý.
Đối với hành vi của bà Nguyễn Thị Nhường mua tài sản của bị cáo bán, không biết đây là tài sản do trộm cắp mà có, cho nên hành vi của bà Nhường không cấu thành tội “ Chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[6] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện D đã T giữ: 01 máy phát cỏ hiệu Robin NB411 màu cam, 01 máy cưa tay hiệu FUJIKAWA 2500 và 01 máy cưa tay hiệu ECHO 302 màu cam, đã trả lại cho chủ sở hữu. Tại phiên tòa bị hại là bà B’Sar T không yêu cầu bồi thường gì thêm. Bà Nguyễn Thị Nhường không yêu cầu bị can trả lại số tiền đã mua máy cưa tay do bị can bán, cần chấp nhận. Do đó phần quyết định của bản án không đề cập.
[7] Về án phí: Bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 91; Điều 101 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn, giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Xử phạt: Bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bắt giam thi hành án.
3.Về án phí: Bị cáo K’ Tấn Huỳnh Min H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, đại diện hợp pháp của bị cáo, người bào chữa, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.
Bản án 65/2019/HSST ngày 25/11/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 65/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đơn Dương - Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về