TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 65/2019/HSST NGÀY 19/11/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2019/HSST ngày 05/11/2019. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 70/2019/QĐXXST-HS ngày 08/11/2019 đối với các bị cáo:
1.Nguyễn Đức N - Tên gọi khác: Không.Sinh ngày 15/5/1980 tại Yên Bái.
Nơi cư trú: thôn B, xã M, TP Y, tỉnh Y.Nghề nghiệp: Không.Trình độ văn hoá: 7/12. Giới tính: Nam. Dân tộc: Kinh.Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Nguyễn Văn T – sinh năm 1940. Con bà: Tạ Thị C – sinh năm 1940.Vợ con:
Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Năm 2005 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 09 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản.
- Năm 2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 08 năm tù về tội: Mua bán trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18-6-2019. Hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt.
2. Hoàng Việt Đ – Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 02-10-1970. Nơi cư trú: Tổ 3, phường Y, TP Y, tỉnh Yên Bái. Giới tính: Nam. Dân tộc: Kinh. Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 7/12. Nghề nghiệp: Không. Con ông: Hoàng Văn K – sinh năm 1945. Con bà: Nguyễn Thị Đ1 – sinh năm 1946. Vợ con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Năm 1994 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội: Trộm cắp tài sản.
- Năm 2003 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 01 năm tù về tội: Trộm cắp tài sản.
- Năm 2006 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 02 năm tù về tội: Trộm cắp tài sản.
- Năm 2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 02 năm 03 tháng tù về tội: Trộm cắp tài sản.
- Năm 2010 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 02 năm tù về tội: Trộm cắp tài sản.
- Năm 2013 bị Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái xử phạt 03 năm tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 18-6-2019. Hiện đang bị tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Yên Bái. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Phạm Văn H – sinh năm 1974
Trú tại: Tổ 9, phường Y, TP Y, tỉnh Yên bái. Vắng mặt.
- Ông Hoàng Văn K – sinh năm 1945
Trú tại: Tổ 3, phường Y, TP Y, tỉnh Yên Bái. Có mặt.
- Chị Nguyễn Chí P - sinh năm 1971.
Trú tại: Tổ 3, phường Y, TP Y, tỉnh Yên Bái. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Việt Đ là đối tượng nghiện chất ma túy, để phục vụ cho nhu cầu của bản thân nên Đ đã mua Heroin về sử dụng và bán kiếm lời. Ngày 14-6-2019, Hoàng Việt Đ đi lên thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai mua được của một người tên B (Đ không biết đầy đủ tên,tuổi và địa chỉ cụ thể) 03 gói ma túy loại Heroin với giá 1.350.000 đồng mang về Yên Bái chia nhỏ để sử dụng và bán kiếm lời. Đến khoảng 11 giờ ngày 15-6-2019, Đ đang ở nhà thì có Nguyễn Đức N gọi điện thoại hỏi mua một gói ma túy loại Heroin với giá 600.000 đồng. Đ đồng ý bán cho N và hẹn N đến khu vực cây xăng đường đi cầu B (Thuộc tổ 2 phường Y, TP Y) để trao đổi. Khi gặp N đưa cho Đ 600.000 đồng. Đ nhận tiền và đưa cho N 01 gói ma túy loại Heroin được gói bằng nilon màu trắng (Loại vỏ túi đựng xilanh), sau khi mua được ma túy trên đường đi về N có nhận được điện thoại của Phạm Văn H hỏi mua 01 gói ma túy loại Heroin với giá 200.000 đồng. N nhất trí bán cho H, N lấy một phần trong gói ma túy vừa mua được của Đ để bán cho H và hẹn H đến sân vận động T (Thuộc tổ 4, phường Đ, TP Y) để trao đổi. Khi gặp H, H đưa cho N 190.000 đồng, N đưa cho H một gói ma túy loại Heroin. Số ma túy mua được của N, H mang về sử dụng hết. Số ma túy còn lại N mua được của Đ, N mang về sử dụng hết cho bản thân.
Khoảng 19 giờ ngày 16-6-2019 Nguyễn Đức N tiếp tục gọi điện thoại hỏi Hoàng Việt Đ mua một gói ma túy loại Heroin với giá 600.000 đồng. Đ đồng ý và bán tiếp cho N một gói ma túy, Đ hẹn gặp N tại cây xăng thuộc tổ 2, phường Y, TP Y để trao đổi. Khi gặp nhau N đưa cho Đ 600.000 đồng, Đ nhận tiền rồi đưa cho N một gói ma túy loại Heroin. Sau khi mua được ma túy N mang về sử dụng hết cho bản thân.
Đến khoảng 11 giờ ngày 18-6-2019 N tiếp tục gọi điện thoại cho Đ hỏi mua một gói ma túy loại Heroin với giá 600.000 đồng. Đ đồng ý bán tiếp cho N một gói ma túy, Đ hẹn gặp N tại gác chắn tầu (Thuộc tổ 1 phường N, TP Y để trao đổi. Khi gặp nhau N đưa cho Đ 600.000 đồng, Đ nhận tiền rồi đưa cho N một gói ma túy loại Heroin. Sau khi mua được ma túy của Đ, N mang về nhà chia số ma túy ra thành 04 gói nhỏ rồi sử dụng 01 gói cho bản thân. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày Phạm Văn H gọi điện thoại cho N hỏi mua một gói ma túy với giá 200.000 đồng. N đồng ý và hẹn H ra xóm Q thuộc tổ 4, phường Đ, TP Y để trao đổi. Khi gặp nhau H đưa cho N 200.000 đồng, N cầm tiền rồi đưa cho H một gói ma túy loại Heroin. Khi cả hai vừa mua bán xong thì bị Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái bắt quả tang thu giữ trên người N 02 gói ma túy loại Heroin có trọng lượng 0,11 gam; 01 điện thoại di động hiệu Masstel mang số thuê bao 0394 501 980; 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đen mang biển kiểm soát 21B1- 872 10 và 400.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Thu giữ của H 01 gói ma túy loại Heroin có trọng lượng 0,02 gam. Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.
Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Đức N nhưng không thu giữ được gì.
Theo lời khai của Nguyễn Đức N Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Hoàng Việt Đ thu giữ được 02 gói Heroin có trọng lượng 0,7 gam; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen mang các số thuê bao 0961 415 212 và 0912 034 487; 01 ví giả da bên trong có một chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Việt Đ và 15.750.000 đồng tiền Ngân hàng nhà nước Việt nam. Cơ quan điều tra đã niêm phong vật chứng.
Cáo trạng số: 64/CT-VKS-TP ngày 04/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái truy tố các bị cáo Nguyễn Đức N và Hoàng Việt Đ về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức N và Hoàng Việt Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức N từ 08 đến 09 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Việt Đ từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 46; 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo. Bị cáo N thừa nhận các ngày 15 và 18-6-2019 đã hai lần bán 02 gói Heroin cho Phạm Văn H thu lợi bất chính 390.000 đồng và tàng trữ 0,11 gam ma túy loại Heroin mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.
Bị cáo Đ thừa nhận các ngày 15; 16 và 18-6-2019 đã ba lần bán 03 gói Heroin cho bị cáo Nguyễn Đức N thu lợi bất chính 1.800.000 đồng và tàng trữ 0,7 gam ma túy loại Heroin mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.
Các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, nhận tội và xin được hưởng mức án thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Yên Bái, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa, lời khai nhận của các bị cáo Nguyễn Đức N và Hoàng Việt Đ phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, kết luận giám định, lời khai của Phạm Văn H và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Nên đã có đủ cơ sở kết luận: Vào ngày 15; 16 và 18-6-2019 Đ đã ba lần bán trái phép 03 gói Heroin cho Nguyễn Đức N trị giá 1.800.000 đồng, tàng trữ 0,7 gam ma túy mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. N đã hai lần bán trái phép ma túy loại Heroin cho Phạm Văn H vào ngày 15; 18-6-2019 và tàng trữ 0,11 gam ma túy mục đích để sử dụng và bán kiếm lời. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Đức N và Hoàng Việt Đ đã phạm tội mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý. Gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội. hành vi của các bị cáo đã tiếp tay cho những kẻ mua bán trái phép chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Do đó, cần đưa các bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
[4]. Về nhân thân: Các bị cáo Nguyễn Đức N và Hoàng Việt Đ là những người có sức khỏe, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì mục đích có ma túy để sử dụng cho bản thân và để bán kiếm lời nên các bị cáo đã cố ý thực hiện. Bản thân các bị cáo hiểu rõ tác hại của ma túy, song do sống buông thả, nên đã sa vào con đường nghiện chất ma túy.
Năm 2005 và 2008 bị cáo N đã phải chấp hành án cho các tội: Trộm cắp tài sản; mua bán trái phép chất ma túy. Năm 1994, 2003, 2006,2008, 2010 và 2013 bị cáo Đ đã phải chấp hành án cho các tội: Trộm cắp tài sản; Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nhưng các bị cáo không lấy đó làm bài học cải tạo bản thân. Đây thể hiện việc coi thường pháp luật, ý thức rèn luyện kém. Nên cần phải có mức hình phạt thỏa đáng tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội, thì mới có thể giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội và phòng chống tội phạm nói chung.
[5]. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo thành khẩn khai báo,bị cáo Đ có bố mẹ là người có công được Nhà nước tặng thưởng Huân chương. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi quyết định hình phạt.
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, không nghề nghiệp, không có tài sản riêng, thu nhập không ổn định. Nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[7]. Đối với Phạm Văn H là đối tượng mua Heroin của Nguyễn Đức N để sử dụng cho bản thân. Xác định hành vi của H chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Do đó, Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái ra quyết định xử lý hành chính đối với H là phù hợp.
Hoàng Việt Đ khai nhận mua ma túy của một người đàn ông tên B tại thị trấn P, huyện B, tỉnh Lào Cai nhưng không biết đầy đủ tên, tuổi và địa chỉ cụ thể, nên không có cơ sở để điều tra, xử lý trong vụ án.
[8].Về vật chứng:
- Đối 0,02 gam ma túy thu giữ của Phạm Văn H; 0,07 gam ma túy (Trích ra từ 0,11gam ma túy) thu giữ của Nguyễn Đức N và 0,07 gam ma túy (Trích ra từ 0,7 gam ma túy) thu giữ của Hoàng Việt Đ, Cơ quan điều tra đã sử dụng vào việc giám định. Cơ quan giám định không hoàn lại mẫu vật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Đối với 0,11 gam ma túy thu giữ của N Cơ quan điều tra đã lấy ra 0,07 gam làm mẫu vật giám định còn lại 0,04 gam được niêm phong; 0,7 gam ma túy thu giữ của Đ Cơ quan điều tra đã lấy ra 0,07 gam làm mẫu vật giám định còn lại 0,63 gam được niêm phong. Cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 06 vỏ phong bì đã mở niêm phong, nilon và giấy gói cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel mang số thuê bao 0394 501 980 thu giữ của N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel mang hai số thuê bao 0961 415 212 và 0912 034 487 thu giữ của Đ. Các bị cáo sử dụng vào việc liên lạc mua bán trái phép chất ma túy nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
- Đối với số tiền 400.000 đồng thu giữ của Nguyễn Đức N trong đó có 390.000 đồng do N bán ma túy cho Phạm Văn H mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Số tiền còn lại 10.000 đồng là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo N.
- Đối với số tiền 15.750.000 đồng thu giữ khi khám xét nơi ở của bị cáo Hoàng Viết Đ. Trong quá trình điều tra đã làm rõ trong đó có 15.000.000 đồng là tài sản của ông Hoàng Văn K nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái đã trả lại cho ông K là phù hợp. Số tiền còn lại 750.000 đồng là tiền Đ bán ma túy cho Nguyễn Đức N mà có nên cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước và truy thu đối với Đ số tiền bán ma tuý Đ đã sử dụng là 1.050.000 đồng nộp ngân sách nhà nước.
- Đối với 01 ví giả da màu đen và 01 chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Việt Đ đây là tài sản và giấy tờ tùy thân của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo Đ.
Quá trình điều tra thu giữ của Nguyễn Đức N 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA màu sơn đen mang biển kiểm soát 21B1- 872 10 trong quá trình điều tra đã làm rõ đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của chị Nguyễn Chí P nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chị P là phù hợp được chấp nhận. [9].Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Đức N và Hoàng Việt Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Về hình phạt:
2.1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Đức N 08 (Tám) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 18-6-2019.
2.2 Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Việt Đ 08 (Tám) năm tù.Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo 18-6-2019.
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy 0,67 gam ma túy loại Hêroin được cho vào 02 túi nilon màu trắng và được niêm phong bằng hai phong bì do phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái phát hành. Mặt trước phong bì có ghi: “Vật chứng thu giữ của Nguyễn Đức N bắt quả tang ngày 18/6/2019 sau khi trích mẫu giám định” và “Vật chứng thu giữ khi khám xét Hoàng Việt Đ ngày 18/6/2019 sau khi trích mẫu giám định”. Mặt sau hai phong bì các mép được dán kín có họ tên, chữ ký của thành phần tham gia niêm phong và bốn hình dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái.
- Tịch thu tiêu hủy 06 vỏ phong bì đã mở niêm phong, nilon và giấy gói.
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel mang số thuê bao 0394 501 980 thu giữ của N và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel mang hai số thuê bao 0961 415 212 và 0912 034 487 thu giữ của Đ.
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 750.000 đồng của Hoàng Việt Đ và 390.000 đồng của Nguyễn Đức N.
- Truy thu của Hoàng Việt Đ số tiền 1.050.000 đồng.
- Trả lại cho bị cáo Đ 01 ví giả da màu đen; 01 chứng minh nhân dân mang tên Hoàng Việt Đ.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức N số tiền 10.000 đồng.
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc các bị cáo Nguyễn Đức N và Hoàng Việt Đ mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
5. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Chí P và Hoàng Văn K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể tuyên án.
Nguyễn Văn H vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, các bị cáo có quyền tự nguyện thi Hành án, hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi Hành án dân sự; thời hiệu thi Hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi Hành án dân sự.
Bản án 65/2019/HSST ngày 19/11/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 65/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về