Bản án 65/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN X M, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU

BẢN ÁN 65/2019/HS-ST NGÀY 10/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 57/2019/HSST ngày 28 tháng 8 năm 2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 9 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Trí c, sinh năm: 1993 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Nơi cư trú: Tổ 2, ấp 2B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trí H, sinh năm: 1952 và bà Hồ Thị H, sinh năm: 1954; Bị cáo chưa có vợ con;

Tiền sự: Có 01 tiền sự ngày 01/4/2019 bị Chủ tịch UBND xã BL áp dụng biện pháp giáo dục tại xã theo quyết định số 167/QĐ -UBND về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng.

Tiền án: Không;

Bị bắt, tạm giam ngày: 31/5/2019.

“Bị cáo có mặt”.

- Người làm chứng:

Ông Nguyễn Cửu T, sinh năm: 1957; nơi cư trú: Ắp 2 B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Vắng mặt”.

Bà Lê Thị T, sinh năm: 1990; nơi cư trú: Ấp 2 B, xã BL, huyện XM, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. “Vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Trí C là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 29/4/2019 bị cáo Chính mua 05 gói ma túy đá của một người không rõ lai lịch ở quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh, đem về cất giấu theo người để sử dụng.

Khoảng 09 giờ 30, ngày 30/4/2019 bị cáo Chính tới tìm anh Nguyễn Hữu Q đang thuê nhà của ông Phan Huy M nhưng anh Q không có nhà, cùng lúc Công an xã BL tới kiểm tra hành chính. Do bị cáo Chính đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, sợ bị khám xét nên bị cáo tự lấy 05 gói nilon bên trong có chất kết tinh không màu trong suốt đang cất giấu trong túi quần ra giao nộp. Công an xã BL đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng và chuyển tới Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện XM để điều tra xử lý. Riêng bị cáo Chính có sử dụng ma túy nên được đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở tư vấn và điều trị nghiện ma túy tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.

Căn cứ kết luận giám định số 162/GĐMT - PC09 (Đ4) ngày 08/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sụ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì 05 gói nilon bên trong có chất kết tinh không màu trong suốt, thu giữ của bị cáo Chính có khối lượng 0,4710 gam là chất ma túy loại Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ và giải quyết trong vụ án:

Số ma túy đá còn lại sau giám định được phòng Kỹ thuật hình sụ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu niêm phong trong phong bì và hoàn trả cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện XM. Vật chứng nêu trên được chuyển tới Chi cục Thi hành án Dân sự huyện XM để quản lý, chờ xử lý khi xét xử.

Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố.

Bản cáo trạng số 54/CT-VKS-XM ngày 26/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Nguyễn Trí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249, Điều 38; điểm r, điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 18 (mười tám) tháng tù đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

về hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

Ngoài ra còn đề nghị giải quyết phần vật chứng đối với vụ án.

Bị cáo Nguyễn Trí C nói lời sau cùng: Bản thân bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tmy tố: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra huyện XM, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện XM, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đứng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa đối chiếu với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và những người tham gia tố tụng khác cũng như những tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ là phù hợp. Theo đó xác định được rằng: Bị cáo Nguyễn Trí C có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cụ thể: Vào khoảng 09 giờ 30, phút ngày 30/4/2019 tại nhà trọ của anh Nguyễn Hữu Q ở tổ 2, ấp 2B, xã BL, huyện XM bị cáo Chính có hành vi cất giấu trong người 05 gói ma túy. Theo kết luận giám định số 162/GĐMT - PC09 (Đ4) ngày 08/5/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sụ Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thì 05 gói nilon bên trong có chất kết tinh không màu trong suốt, thu giữ của bị cáo Chính có khối lượng 0,4710 gam là chất ma túy loại Methamphetamine.

Như vậy hành vi của bị cáo nêu trên có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Từ đó cho thấy bản cáo trạng số 54/CT - VKS - XM ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện XM truy tố bị cáo Nguyễn Trí C về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo đã bị Chủ tịch UBND xã BL áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học sửa đổi bản thân, cho thấy bị cáo có ý thức xem thường pháp luật. Bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy và việc tàng trữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thỏa mãn nhu cầu của bản thân mà bất chấp pháp luật nên bị cáo vẫn tàng trữ để sử dụng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, là một trong những nguyên nhân là phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo tự giao nộp vật chứng, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên áp dụng quy định tại điểm r, điểm s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy nhàm mục đích để sử dụng, không nhằm mục đích thu lợi bất chính, bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng vụ án:

- 01 phong bì đã được niêm phong có số ký hiệu vụ số 162 ngày 08/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bên trong có chứa chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định là chất nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Đối với nguồn gốc ma túy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo khai mua ma túy của một người không rõ lai lịch ở quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào có cơ sở sẽ xử lý sau.

[9] về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Trí C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c, khoản 1, Điều 249; Điều 38; điểm r, điểm s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Trí C 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 31/5/2019.

2. về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì có số ký hiệu vụ số 162 ngày 08/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bên trong có chứa chất ma túy, loại Methamphetamine còn lại sau giám định.

(Toàn bộ vật chứng nêu trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/8/2019 giữa Công an huyện XM và Chi cục Thi hành án dân sự huyện XM).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Nguyễn Trí C phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-ST ngày 10/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:65/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về