Bản án 65/2019/HS-PT ngày 13/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 65/2019/HS-PT NGÀY 13/06/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 60/TLPT-HS ngày 18 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo Mai Văn H, do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 04 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa.

Bị cáo có kháng cáo:

Mai Văn H (tên gọi khác: T), sinh năm: 1999, tại thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn TH, xã NH, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai K và bà Lê Thị Th; chưa có vợ, con;

Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Không;

Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra, trong vụ án còn có bị cáo Võ Văn S không có kháng cáo và cũng không bị kháng cáo, kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 16 tháng 9 năm 2018, Mai Văn H và Võ Văn S bàn bạc với nhau về việc cùng đi trộm cắp để kiếm tiền sử dụng cho bản thân. Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 17 tháng 9 năm 2018, S điều khiển xe mô tô biển số 79H1-688.25 chở H đi trên các tuyến đường thuộc thành phố Nha Trang với mục đích tìm tài sản để trộm cắp. Khi đến khu vực đồng ruộng thuộc thôn XN, xã VN, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa, S phát hiện và nói với H có một xe mô tô hiệu Symen màu xanh đen, biển số 79N1-212.50 (của ông Bùi Văn B) đang dựng trên bờ ruộng không có người trông coi, trên xe có gắn chìa khóa. H xuống xe đi đến nổ máy và điều khiển chiếc xe này bỏ chạy, S điều khiển xe mô tô biển số 79H1-688.25 chạy theo sau nhưng xe bị hư nên dừng lại. Thấy vậy, H cũng dừng xe lại đẩy xe cho S. Lúc này, nghe tiếng xe ông B quay lại nhìn và phát hiện H đang điều khiển xe của mình nên ông truy hô, đuổi theo và cùng một số người khống chế, bắt giữ H và S cùng tang vật giao cho Công an xã VN.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 452/HĐĐG ngày 19 tháng 9 năm 2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố NT kết luận: 01 chiếc xe mô tô biển số 79N1-212.50 trị giá 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 04 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa đã quyết định:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Mai Văn H 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Võ Văn S 04 (bốn) tháng tù; quyết định về trách nhiệm dân sự, vật chứng, án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo.

Ngày 06 tháng 3 năm 2019, bị cáo Mai Văn H kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm mức hình phạt cho bị cáo và xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đề nghị Hội đồng xét xử: Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm vì các quyết định của bản án sơ thẩm có căn cứ và đúng pháp luật.

- Bị cáo giữ nguyên kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ngày 06 tháng 3 năm 2019, bị cáo Mai Văn H có đơn kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm số 35/2019/HSST ngày 04 tháng 3 năm 2019 của Tòa án nhân dân thành phố NT. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, đơn kháng cáo của bị cáo Mai Văn H trong thời hạn luật định, nên kháng cáo của bị cáo được cấp phúc thẩm xem xét.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Mai Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo Võ Văn S, vật chứng đã được thu giữ, cùng với các chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận:

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại khu vực đồng ruộng thuộc thôn XN, xã VN, thành phố NT, tỉnh Khánh Hòa, Mai Văn H cùng Võ Văn S đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 chiếc xe mô tô hiệu Symen màu xanh đen, biển số 79N1-212.50 của ông Bùi Văn B có giá trị 3.200.000đ (ba triệu hai trăm nghìn đồng). Hành vi đó của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Mai Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được nhà nước bảo hộ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định Điểm h, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Mai Văn H và xử phạt bị cáo mức án 06 (sáu) tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng nhận thấy: Bị cáo Mai Văn H là người lao động, có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, áp dụng thêm Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt 06 tháng tù đối với bị cáo Mai Văn H và cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm trong xã hội.

[3] Về án phí: Bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 343; Điểm b Khoản 1 và Khoản 2 Điều 355 và Điểm e Khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự,

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Văn H (tên gọi khác: T), sửa bản án sơ thẩm:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 173; Điểm h, i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Mai Văn H.

- Xử phạt bị cáo Mai Văn H 06 (sáu) tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, nhưng cho bị cáo được hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm, tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 13 tháng 6 năm 2019).

Giao bị cáo Mai Văn H cho Ủy ban nhân dân xã NH, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo Mai Văn H có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã NH, thị xã NH, tỉnh Khánh Hòa trong việc giám sát, giáo dục đối với bị cáo. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật thi hành án hình sự.

2. Án phí: Bị cáo Mai Văn H không phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 13 tháng 6 năm 2019).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2019/HS-PT ngày 13/06/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:65/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về