TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 65/2018/HS-ST NGÀY 29/11/2018 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 59/2018/TLST-HS ngày 05 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với các bị cáo:
1. Vũ Đức A (tên gọi khác là Nh), sinh năm 1992, tại xã H, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
Nơi cư trú: Thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương;
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Đức Đ và bà Phạm Thị H; có vợ và 02 con; tiền án: Không,tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 26/6/2012, bị công an Thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”. Đã chấp hành xong năm 2012.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
2. Phạm Đình T, sinh năm 1989, tại xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn:9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Đình Th và bà Nguyễn Thị T1; có vợ và 01 con; tiền án: Không,tiền sự: Không;
Nhân thân:
+ Ngày 20/7/2009, bị công an huyện Bình Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Đánh nhau. Đã chấp hành xong năm 2009.
+ Ngày 31/8/2010, bị công an huyện Bình Giang xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Hủy hoại tài sản. Đã chấp hành xong năm 2010.
+ Ngày 23/5/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Bình giang xử phạt 12 tháng tù về tội Đánh bạc. Đã chấp hành xong bản án ngày 02/5/2012.
Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ủy ban nhân dân xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương.
- Người đại diện hợp pháp của bị hại:
Ông Lê Hữu Huy – Chức vụ: Phó Chủ tịch UBND xã Hưng Thịnh.
(Theo ủy quyền của Chủ tịch UBND xã Hưng Thịnh tại giấy ủy quyền ngày 19/3/2018).
Ông Huy có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
+ Ạnh Vũ Khắc Đ, sinh năm 1985.
Địa chỉ: Thôn AD, xã HK, huyện B, tỉnh Hải Dương.
+ Anh Vũ Đức Tr, sinh năm 1982.
Địa chỉ: Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương.
+ Chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1983.
Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương.
+ Ông Phạm Đình L, sinh năm 1966.
Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương.
+ Anh Nguyễn Quang S, sinh năm 1976.
Địa chỉ: Khu 3, TT K, huyện B, tỉnh Hải Dương.
+ Anh Phạm Văn Ph, sinh năm 1984.
Địa chỉ : Khu T, xã T, huyện B, tỉnh Hải Dương.
+ Anh Khúc Xuân Q, sinh năm 1971. Địa chỉ: xã N, huyện M, tỉnh Hưng Yên.
+ Ông Vũ Viết M, sinh năm 1962.
Địa chỉ: Thôn M, xã V, huyện B, tỉnh Hải Dương.
+ Ông Vũ Đức Đ, sinh năm 1966.
Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện B, tỉnh Hải Dương.
Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Để ngăn ngừa việc người dân lấn chiếm khu đất hành lang an toàn giao thông tại Km32+400 thuộc quốc lộ 38 thuộc địa phận Quán Gỏi, xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương, UBND xã Hưng Thịnh đã đầu tư từ ngân sách xã xây dựng đoạn hàng rào dây thép gai có chiều dài 29,4 m, gồm 2 đoạn, vuông góc với nhau; một đoạn có chiều dài 21,6 mét; một đoạn có chiều dài 7,8 m. Toàn bộ hàng rào gồm 17 cọc sắt V4 chôn xuống đất, được đổ bê tông phần chân. Phần trên buộc 5 hàng rào thép gai.
Với mục đích lấn chiếm khu đất hành lang nêu trên, nên ngày 18/3/2018, Vũ Đức A mượn kìm cắt sắt của Phạm Đình T (là em họ của Đức A) để cắt phá đoạn hàng rào thép gai nêu trên. Đức A cắt được một thời gian thì T cũng ra và tham gia cắt phá cùng. Sau khi tháo dỡ dây thép gai, cả hai cùng nhau lay, nhổ các cọc sắt V4 nhưng chỉ nhổ được một số cọc chôn nông, còn cọc chôn sâu dưới đất thì không nhổ được, nên Đức A đã gọi điện cho anh Phạm Văn Phương để thuê máy xúc sang nhổ các cọc sắt và san lấp khu đất. Anh Phương là chủ máy xúc đã điều anh Vũ Khắc Điệp lái máy xúc làm theo yêu cầu của Đức A. Anh Điệp đã cho máy xúc sang và điều khiển máy xúc nhổ các cọc sắt V4, san gạt khu đất. Đoạn hàng rào bị phá hủy một phần dài 18,6 m được định giá 2.709.045 đồng.
Tại phiên tòa, Vũ Đức A khai nhận: Mặc dù biết rõ hàng rào dựng trên khu đất hàng lang giao thông của đường quốc lộ 38 đoạn qua thôn Quán Gỏi, xã Hưng Thịnh là của UBND xã Hưng Thịnh xây dựng để ngăn người lấn chiếm đất hành lang giao thông, nhưng với mục đích lấn chiếm khu đất hành lang giao thông nêu trên để sử dụng cho gia đình, Đức A đã mượn kìm cắt sắt của Phạm Đình T và cắt phá đoạn hàng rào dây thép gai do UBND xã Hưng Thịnh xây dựng, khi đang cắt phá thì được Phạm Đình T ra trợ giúp. Phần cọc sắt chôn sâu không phá được bằng tay, Đức A đã thuê máy xúc về để nhổ và san lấp mặt bằng. Bị cáo Nh trí với quanđiểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa, nhưng về hình phạt bị cáo đề nghị được áp dụng hình phạt chính là phạt tiền.
Tại phiên tòa, Phạm Đình T khai nhận, dù biết Vũ Đức A mượn kìm cắt sắt để cắt hàng rào sắt của UBND xã Hưng Thịnh xây dựng, nhưng T đã cho Đức A mượn kìm sắt để sử dụng, sau đó chính T cũng tham gia giúp Đức A cắt sắt, tháo dỡ dây thép gai, lay nhổ cọc sắt và trực tiếp chỉ đạo máy xúc lay nhổ cọc sắt, san gạt mặt bằng khu đất. Bị cáo Nh trí với truy tố của Viện kiểm sát và xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, người đại diện bị hại khai: Ngày 18/3/2018, Đoạn hàng rào UBND xã Hưng Thịnh xây dựng ở khu đất hành lang giao thông quốc lộ 38 đi qua Quán Gỏi, xã Hưng Thịnh đã bị phá hủy một phần, Nh trí với kết quả xác định phần hàng rào sắt bị phá dài 18,6 mét, với kết quả định giá, với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát đối với Vũ Đức A và Phạm Đình T. Do trong quá trình điều tra vụ án, các bị cáo đã xây dựng lại đoạn hàng rào đã cắt phá, đồng thời bồi thường số tiềnbằng trị giá thiệt hại gây ra là 2.709.045 đồng nên UBND xã Hưng Thịnh không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo.
Những người làm chứng là chị Nguyễn Thị Kim H, anh Vũ Đức T, anh Phạm Đình L, anh Vũ Viết M, anh Khúc Xuân Q , anh Nguyễn Quang S, ông Vũ Đức Đ khai tại cơ quan điều tra: Trực tiếp chứng kiến sự việc hàng rào của UBND xã Hưng Thịnh bị cắt phá, nhưng không biết ai là người cắt phá.
Người làm chứng là anh Vũ Khắc Đ khai tại cơ quan điều tra: Anh được anh Phạm Văn Ph thuê lái máy xúc để phá dỡ đoạn hàng rào mà khi phá dỡ, anh không biết là của UBND xã Hưng Thịnh. Người chỉ đạo anh phá dỡ hàng rào là người mà sau này anh xác định được là bị cáo Phạm Đình T.
Người làm chứng là anh Phạm Văn Ph khai vào ngày 18/3/2018, anh được Vũ Đức A gọi điện thuê máy xúc, nhưng không nói cụ thể việc sử dụng máy xúc để phá hàng rào của UBND xã Hưng Thịnh, anh có gọi điện để điều xe cẩu do lái xe Vũ Khắc Đ sang gặp Đức A, ngoài ra anh không biết gì thêm.
Tại bản cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 02/11/2018 , Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố bị cáo Vũ Đức A và Phạm Đình T về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố của bản cáo trạngvà đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Vũ Đức A và Phạm Đình T phạm tội Cố ýlàm hư hỏng tài sản.
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với Phạm Đình T. Khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với Vũ Đức A.
Tuyên bố Vũ Đức A và Phạm Đình T phạm tội Cố ý làm hư hỏng tài sản.
Xử phạt : Xử phạt Vũ Đức A từ 10 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.
Xử phạt Phạm Đình T từ 10 đến 12 tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Vũ Đức A, Phạm Đình T cho Ủy ban nhân dân xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian các bị cáo chấp hành hình phạt.
Khấu trừ từ 5% đến 10 % thu nhập hàng tháng bị cáo Vũ Đức A, Phạm Đình T trong thời gian các bị cáo chấp hành hình phạt để sung quỹ nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, nên không phạt tiền bổ sung.
Về trách nhiệm dân sự: Không phải giải quyết.
Về án phí: Buộc Vũ Đức A, Phạm Đình T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bình Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của các bị cáo phù hợp với biên bản xác định hiện trường, lời khai của người đại diện bị hại, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nên có căn cứ xác định:
Vào buổi sáng ngày 18/3/2018, với ý định lấn chiếm đất hành lang giao thông quốc lộ 38 đoạn chạy qua thôn Quán Gỏi, xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang. Vũ Đức A và Phạm Đình T đã thực hiện hành vi dùng kìm cắt phá hàng rào sắt do UBND xã Hưng Thịnh xây dựng để có thể tiếp cận khu đất hành lang. Hậu quả: làm hư hỏng một phần 18,6 mét trong tổng số 29 mét hàng rào thép gai. Phần hàng rào bị làm hư hỏng trị giá 2.709.045 đồng.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của UBND xã Hưng Thịnh. Các bị cáo đều có năng lực trách nhiệm hình sự biết rõ hành vi làm hư hỏng tài sản của người khác là nguy hiểm cho xã hội, nhưng vẫn cố ý thực hiện vì mục đích muốn phá hỏng hàng rào để có thể tiếp cận, lấn chiếm khu đất hành lang giao thông, như vậy các bị cáo có lỗi cố ý khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Từ phân tích trên, đủ căn cứ xác định hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội Cố ý làm hư hỏng tài sản, được quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Giang truy tố các bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
Trong vụ án này, Vũ Đức A và Phạm Đình T là đồng phạm với nhau cùng thực hiện tội phạm. Đức A là người khởi xướng việc làm hư hỏng tài sản, đồng thời trực tiếp thực hiện việc cắt phá hàng rào và là người thuê máy xúc về để phá dỡ các cọc bê tông; Phạm Đình T là người giúp sức khi cho Đức A mượn kìm cắt sắt, cũng là người thực hành khi cùng tham gia cắt phá dây thép gai, trực tiếp chỉ đạo máy xúc thi công, phá dỡ hàng rào. Nên vai trò của Đức A là đầu vụ, còn Phạm Đình T là người thực hành tích cực.
Về tình tiết giảm nhẹ, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình; các bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại đồng thời dựng lại hàng rào thép gai đã phá hỏng; Người đại diện của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo nên cả hai bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, b khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Vũ Đức A phạm tội lần đầu và phạm tội ít nghiêm trọng nên hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, tài sản bị thiệt hại có giá trị không lớn chỉ ở mức khởi điểm của khung hình phạt của điều luật, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, trong quá trình điều tra đã nhận thức được sai lầm nên đã sửa chữa, khắc phục hậu quả và đại diện UBND xã Hưng Thịnh có ý kiến đề nghị giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo. Do vậy, xét thấy không cần thiết phải cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ với các bị cáo là phù hợp và đủ để giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm. Đối với đề nghị của bị cáo Vũ Đức A xin hưởng hình phạt tiền, HĐXX thấy rằng, bị cáo có vai trò đầu trong thực hiện tội phạm, hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an địa phương nên cần áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ là phù hợp mà không áp dụng hình phạt tiền theo đề nghị của bị cáo.
Cần khấu trừ một phần thu nhập hàng tháng của các bị cáo trong thời gian chấp hành hình phạt để sung quỹ nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, hoàn cảnh kinh tế chỉ đảm bảo mức sống tối thiểu, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
Về trách nhiệm dân sự: UBND xã Hưng Thịnh không yêu cầu các bị cáo bồi thường thêm nên không phải xem xét, giải quyết trong vụ án.
Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra không thu giữ được chiếc kéo là phương tiện thực hiện tội phạm, không thu giữ được cọc sắt, dây thép gai nên không xem xét.
Về án phí: Các bị cáo phạm tội, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với Phạm Đình T. Khoản 1 Điều 178 của Bộ luật hình sự; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự đối với Vũ Đức A.
Tuyên bố Vũ Đức A và Phạm Đình T phạm tội Cố ý làm hư hỏng tài sản.
Xử phạt Vũ Đức A 10 (mười) tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.
Xử phạt Phạm Đình T 10 (mười) tháng cải tạo không giam giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương nhận được Bản án và Quyết định thi hành án.
Giao bị cáo Vũ Đức A, Phạm Đình T cho Ủy ban nhân dân xã Hưng Thịnh, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian các bị cáo chấp hành hình phạt.
Khấu trừ 5% thu nhập hàng tháng của mỗi bị cáo Vũ Đức A, Phạm Đình T trong thời gian các bị cáo chấp hành hình phạt để sung quỹ nhà nước.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc Vũ Đức A, Phạm Đình T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/11/2018).
Bản án 65/2018/HS-ST ngày 29/11/2018 về tội cố ý làm hư hỏng tài sản
Số hiệu: | 65/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Giang - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về