Bản án 65/2017/HNGĐ-ST ngày 04/10/2017 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN TRE, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 65/2017/HNGĐ-ST NGÀY 04/10/2017 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 04 tháng 10 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2017/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2017 về vi c “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Ngọc H, sinh năm 1994

Địa chỉ: khu phố BL, phường F, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Trọng N, sinh năm 1990

Địa chỉ: ấp MA, xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 16/3/2017, lời khai cùng các văn bản, tài liệu chứng cứ cung cấp cho Tòa án cũng như tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc H trình ày:

Bà và ông Trần Trọng N kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre vào ngày 28/01/2013. Hôn nhân do tự nguyện.

Sau khi kết hôn, thời gian đầu sống hạnh phúc. Nhưng đến đầu năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông N không quan tâm đến vợ con. Từ cuối năm 2013, bà về nhà mẹ ruột sinh con và nuôi con cho đến nay. Ông N không quan tâm cũng không đến thăm vợ con lần nào. Bà và ông N đã ly thân từ cuối năm 2013 đến nay.

Trong quá trình hôn nhân, bà và ông N có một con chung tên Trần Ngọc Như Y, sinh ngày 24/3/2013.

Về tài sản chung: Không có.

Về nợ chung: Không có. Nay bà yêu cầu:

Về hôn nhân: Xin được ly hôn với ông N.

Về con chung: Bà xin được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã nhiều lần mời ông N đến để tiến hành hòa giải nhưng ông N vẫn vắng mặt nên không thể tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật: những người tiến hành tố tụng, nguyên đơn tuân thủ đúng quy định. Về nội dung: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời trình ày của các đương sự , căn cứ vào ết qu tranh luận, căn cứ ý iến của đại diện Viện iểm sát nhân dân thành phố Bến Tre tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Bà Phan Thị Ngọc H và ông Trần Trọng N kết hôn và có đăng ký kết hôn tại UBND xã MTA, thành phố BT, tỉnh Bến Tre vào ngày 28/01/2013. Hôn nhân do tự nguy n. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ .

Bà H cho rằng sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc nhưng đến đầu năm 2014 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn không thể hàn gắn nên bà yêu cầu xin được ly hôn.

Xét đây là vụ án xin ly hôn, bị đơn đang cư trú tại thành phố BT nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre theo quy định tại Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã nhiều lần mời ông N đến để tiến hành hòa giải nhưng ông N vẫn cố tình vắng mặt nên Tòa án lập biên bản không tiến hành hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa hôm nay, mặc dù Tòa án đã triệu tập hợp l đến lần thứ hai nhưng ông N vẫn cố tình vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông N là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mâu thuẫn giữa bà H và ông N phát sinh từ đầu năm 2014 nhưng cho đến nay cả hai không tìm cách tháo gỡ được mà ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Bà H cho rằng ông N không quan tâm đến vợ con, từ cuối năm 2013, bà về nhà mẹ ruột sinh con và nuôi con cho đến nay, ông N không quan tâm cũng không đến thăm vợ con lần nào. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông N nên xin được ly hôn. Tòa án đã nhiều lần mời ông N đến để hòa giải, hàn gắn gia đình nhưng ông N vẫn cố tình vắng mặt. Bà H và ông N cũng đã ly thân từ cuối năm 2013 đến nay.

Đồng thời, theo biên bản xác minh ngày 12/4/2017 thì giữa bà H và ông N có phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, gia đình không hạnh phúc, bà H đã về nhà cha mẹ ruột ở 02 – 03 năm nay.

Như vậy, ông N đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ vợ chồng làm cho hôn nhân giữa hai bên lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, ly hôn là bi n pháp tốt nhất cho cả hai.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà H và ông N có một con chung tên Trần Ngọc Như Y, sinh ngày 24/3/2013. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, hi n hay cháu Y vẫn còn nhỏ nên để bà H tiếp tục nuôi dưỡng cháu Y là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân gia đình. Vì vậy, xét yêu cầu của bà H xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp nên được chấp nhận. Ghi nhận việc bà H không yêu cầu ông N cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà H khai tài sản chung và nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng bà H phải nộp.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Tre tham gia phiên tòa phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ các Điều 28, 35, 147, 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và l phí Tòa án,

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiên của nguyên đơn bà Phan Thị Ngọc H cụ thể tuyên:

1. Về hôn nhân: Bà Phan Thị Ngọc H được ly hôn với ông Trần Trọng N.

2. Về con chung: Bà Phan Thị Ngọc H là người trực tiếp nuôi con chung tên Trần Ngọc Như Y, sinh ngày 24/3/2013, ghi nhận vi c bà Phan Thị Ngọc H không yêu cầu ông Trần Trọng N cấp dưỡng nuôi con chung.

Ông Trần Trọng N được quyền đến thăm chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con

3. Về tài sản chung: Không có nên không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Không có nên không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Phan Thị Ngọc H phải nộp nhưng được khấu trừ theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0010358 ngày 23/3/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.

Trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án bà Phan Thị Ngọc H được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm. Riêng ông Trần Trọng N vắng mặt tại phiên tòa hôm nay được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

 “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguy n thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 65/2017/HNGĐ-ST ngày 04/10/2017 về xin ly hôn

Số hiệu:65/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bến Tre - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về