Bản án 647/2020/HNGĐ-ST ngày 22/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị Ng và anh Tr 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 647/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ NG VÀ ANH TR 

Ngày 22 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 560/2020/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 11 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 114/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Ng, sinh năm 1994; Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn V, xã N, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: thôn T, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. Có mặt

Bị đơn: Anh Đặng Quang Tr, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Thôn, xã, thành phố N, tỉnh Nam Định. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

1.Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình đề ngày 20-10-2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa nguyên đơn chị Vũ Thị Ng trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Đặng Quang Tr kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu khoảng 01 năm và có đăng ký kết hôn vào ngày 21-3-2018 tại UBND xã N, thành phố Nam Định. Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh muân thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sinh hoạt, bất đồng về kinh tế. Anh Tr không tu chí làm ăn, không chăm lo cuộc sống gia đình và vợ con nên vợ chồng thường xảy ra xung đột, cãi vã. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nên từ tháng 10 năm 2020 chị Ng cùng hai con đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại thôn T, xã N, huyện N để ở và vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Trong thời gian ly thân vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Nay chị Ng xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án giải quyết cho vợ chồng chị ly hôn.

Về con chung: Chị Ng trình bày vợ chồng có hai con chung là Đặng Vũ Bảo Long – sinh ngày 22-9-2018 (giới tính: Nam) và Đặng Vũ Bảo Lâm – sinh ngày 07-11-2019 (giới tính: Nam). Hiện tại các con đang ở cùng với chị Ng. Về việc nuôi con: Chị Ng có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai con. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ng xác định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị Ng xác định vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2.Tại bản tự khai đề ngày 17-11-2020, trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa bị đơn anh Đặng Quang Tr trình bày:

Về hôn nhân: Anh Tr thừa nhận về thời gian, điều kiện, hoàn cảnh kết hôn như chị Vũ Thị Ng trình bày là đúng. Còn về mâu thuẫn vợ chồng anh Tr trình bày: Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 10 năm 2020 thì phát sinh muân thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về lối sống, sinh hoạt, bất đồng về việc chăm sóc và nuôi con nên vợ chồng đã xảy ra xung đột, cãi vã. Do mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nên từ tháng 10 năm 2020 chị Ng cùng hai con đã chuyển về nhà bố mẹ đẻ tại thôn T, xã N, huyện N để ở và vợ chồng đã sống ly thân cho đến nay. Nay chị Ng xin ly hôn, anh Tr xác định mâu thuẫn vợ chồng không có gì trầm trọng, bản thân anh Tr vẫn còn tình cảm với chị Ng nên không đồng ý ly hôn với chị Ng.

Về con chung: Anh Tr cũng xác nhận vợ chồng có hai con chung là Đặng Vũ Bảo Long – sinh ngày 22-9-2018 (giới tính: Nam) và Đặng Vũ Bảo Lâm – sinh ngày 07-11-2019 (giới tính: Nam). Hiện tại các con đang ở cùng với chị Ng. Về việc nuôi con: Anh Tr đồng ý nếu vợ chồng ly hôn chị Ng sẽ trực tiếp, nuôi dưỡng và chăm sóc hai con. Về cấp dưỡng nuôi con: vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và vay nợ chung: anh Tr xác nhận vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3.Tại biên bản thu thập tài liệu chứng cứ ngày 24-11-2020 tại Ủy ban nhân dân xã Nam Phong xác nhận quá trình chung sống vợ chồng chị Ng và anh Tr đã xảy ra mâu thuẫn, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân. Về con chung: Vợ chồng chị Ng, anh Tr có hai con chung là Đặng Vũ Bảo Long – sinh ngày 22-9-2018 (giới tính: Nam) và Đặng Vũ Bảo Lâm – sinh ngày 07-11-2019 (giới tính: Nam). Hiện tại hai con đang ở với chị Ng.

4.Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá: Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các qui định của pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự đã chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị Ng và anh Tr đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa chị Ng và anh Tr. Về con chung: chị Ng và anh Tr thỏa thuận chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng hai con khi vợ chồng ly hôn, về cấp dưỡng nuôi con vợ chồng chị Ng, anh Tr tự thỏa thuận nên đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận. Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị Ng và anh Tr không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Vũ Thị Ng và anh Đặng Quang Tr kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Phong, thành phố Nam Định nên hôn nhân giữa chị Ng và anh Tr là hôn nhân hợp pháp.

[2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về lối sống, sinh hoạt. Anh Tr không chăm lo cuộc sống gia đình, vợ con nên vợ chồng xảy ra xung đột, cãi vã. Vợ chồng ly thân từ năm tháng 10 năm 2020 cho đến nay và không còn quan tâm chăm sóc đến nhau. Chị Ng xin ly hôn, anh Tr không đồng ý nhưng anh Tr cũng không đưa ra các biện pháp có hiệu quả để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng. Do đó, chứng tỏ cuộc sống vợ chồng đã thực sự trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử xử cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Ng và anh Đặng Quang Tr theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về việc nuôi con: Chị Ng và anh Tr thống nhất: Chị Ng trực tiếp nuôi dưỡng hai con Đặng Vũ Bảo Long – sinh ngày 22-9-2018 (giới tính: Nam) và Đặng Vũ Bảo Lâm – sinh ngày 07-11-2019 (giới tính: Nam). Về cấp dưỡng nuôi con: vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét sự thỏa thuận của các đương sự về việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con là hoàn toàn tự nguyện nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị Ng và anh Tr xác nhận tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Ng là nguyên đơn nên phải nộp toàn bộ án phí.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào điểm a khoản 5, điểm a, b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Ng và anh Đặng Quang Tr.

2. Về nuôi con chung: Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau: Chị Vũ Thị Ng trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng hai con Đặng Vũ Bảo Long – sinh ngày 22-9-2018 (giới tính: Nam) và Đặng Vũ Bảo Lâm – sinh ngày 07-11- 2019 (giới tính: Nam). Về cấp dưỡng nuôi con: Vợ chồng tự thỏa thuận và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung 3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị Ng phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Vũ Thị Ng đã nộp tại biên lai số 0003328 ngày 04-11-2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Ng, anh Đặng Quang Tr có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 647/2020/HNGĐ-ST ngày 22/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị Ng và anh Tr 

Số hiệu:647/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về