Bản án 64/2021/HS-PT ngày 07/07/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 

BẢN ÁN 64/2021/HS-PT NGÀY 07/07/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ 

Ngày 07/7/2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2021/TLPT-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2021/HS-ST ngày 07/04/2021 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Trần Kim Trọng T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 14/02/1994 tại Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Nhân viên kinh doanh; Nơi ĐKHKTT: Tổ x, phường Hòa Thuận Đông, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Hiện trú tại : Số x đường Núi Thành, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵn g. Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Kim T và bà Nguyễn Thị T1; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam ngày 30/8/2020, có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Bá H, tên gọi khác: Không, sinh ngày 07/5/1988 tại Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Hiện trú tại: Tổ x, phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng. Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Bá H và bà Hồ Minh H; Có vợ là Bùi Thị Thùy T (đã ly hôn) ; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam ngày 30/8/2020, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Duy L, tên gọi khác: Không, sinh ngày 20/8/1991 tại Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Nhân viên kinh doanh; Hiện trú tại: Tổ x, phường Hòa Cường Bắc, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đăng N và bà Nguyễn Thị H; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam ngày 04/9/2020, có mặt tại phiên tòa.

4. Phm Hữu Q, tên gi khác: Không, sinh ngày 01/01/1992 tại Qung Nam; Nghề nghiệp: Lái xe; Nơi ĐKHKTT: Tổ x, thôn Hòa Giang, xã Điện Trung, huyện Điện Bàn, tỉnh Q Nam; Hiện trú tại: Số x đường Hà Mục, phường Hòa Phát, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Hữu D và bà Trương Thị X; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam ngày 14/10/2020, có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Đình N, tên gọi khác: Không, sinh ngày 14/3/1993 tại Quảng Trị; Nghề nghiệp: Nhân viên kinh doanh; Nơi ĐKHKTT: Khu phố x, phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị; Hiện trú tại: Tổ x, phường Hòa Thọ Tây, quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng . Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình Đ và bà Võ Thị B; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam ngày 14/10/2020, có mặt tại phiên tòa .

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ ngày 09/8/2020, Trần Kim Trọng T đến nhà Phạm Bá H tại x Điện Biên Phủ, thành phố Đà Nẵng chơi. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, T điện thoại rủ Phạm Hữu Q đến quán Karaoke Không Gian Xưa để hát Karaoke; Sau đó T điều khiển xe mô tô Yamaha Exciter biển số 43B1 - 022xx chở H đến quán Karaoke Không Gian Xưa xem có mở cửa không, nếu có thì lấy phòng để hát Kara oke. Khi T và H đến khu vực ngã tư đường Điện Biên Phủ - Hà Huy Tập, th ành phố Đà Nẵng thì gặp Phạm Hữu Q. Cả ba cùng đến quán Karaoke Không Gian Xưa và lấy phòng Vip 6. H liên lạc với Nguyễn Đình N, T liên lạc với Nguyễn Duy L nói đến quán Karaoke Không Gian Xưa để hát Karaoke. Khi có đủ 05 người thì T khởi xướng mua ma túy về sử dụng thì được H, Q, N, L đồng ý; cả nhóm thống nhất T liên hệ mua ma túy và trả tiền trước, những người còn lại sẽ góp tiền lại trả cho T sau. Sau đó, T liên lạc với một thanh niên tên L để mua 01 chỉ ma túy khay với giá 2.000.000 đồng và 03 viên ma túy thuốc lắc với giá 750.000 đồng. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Lỳ đem số ma túy trên đem đến trước cửa phòng Vip 6 giao cho T nhưng T chưa đưa tiền. Sau khi có ma túy, T bỏ 03 viên ma túy thuốc lắc và 01 gói ma túy Khay trên bàn trong phòng Vip 6; L cuộn tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng làm ống hút để sử dụng ma túy Khay và đổ gói ma túy Khay ra đĩa sứ màu trắng để ai có nhu cầu thì sử dụng. Một lúc sau thì H tự ý gọi điện rủ Lê Thị Quỳnh TH đến chơi. Khi Thơ đến và vào phòng hát Karaoke, cả nhóm đều biết là bạn do H gọi đến. Quá trình hát Karaoke, T, H, L, N, Q mỗi người sử dụng nửa viên ma túy thuốc lắc và đều sử dụng ma túy Khay; riêng H đưa nửa viên ma túy thuốc lắc và ma túy Khay cho TH sử dụng. Đến khoảng 22 giờ 15 phút cùng ngày khi cả nhóm đang sử dụng ma túy thì bị Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Khê phối hợp với Công an phường Thanh Khê Đông, quận Thanh Khê , thành phố Đà Nẵng tiến hành kiểm tra hành chính đưa tất cả về trụ sở Công an quận Thanh Khê , thành phố Đà Nẵng làm việc. Qua xác minh thì Lê Thị Quỳnh TH là đối tượng đang cai nghiện tại địa phương .

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2021/HSST ngày 07/4/2021, Toà án nhân dân quận Thanh Khê, Tp. Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Căn cứ: Điểm đ Khoản 2 Điều 255; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; riêng bị cáo Phạm Bá H và Nguyễn Duy L áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Trần Kim Trọng T 07 (Bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày bắt giam 30/8/2020.

Xử phạt: Phạm Bá H 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày bắt giam 30/8/2020.

Xử phạt: Nguyn Duy L 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày bắt giam 04/9/2020.

Xử phạt: Phạm Hữu Q 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày bắt giam 14/10/2020.

Xử phạt: Nguyễn Đình N 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù Th từ ngày bắt giam 14/10/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 16/4/2021, bị cáo Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xét xử theo trình tự phúc thẩm xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 20/4/2021, bị cáo Trần Kim Trọng T có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin xét xử theo trình tự phúc thẩm xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Bản án hình sự sơ thẩm số 39/2020/HS-ST ngày 07/4/2021 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã xét xử các bị cáo Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm đ khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có cơ sở, đúng pháp luật, không nặng. Sau khi xử sơ thẩm, các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Các bị cáo Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N thừa nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã kết luận, giữ nguyên nội dung kháng cáo, mong Hội đồng xét xử xem xét Th chất mức độ phạm tội, giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N đã khai nhận: Vào tối ngày 09/8/2020, mặc dù đang trong thời gian áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội, cấm tập trung đông người để phòng chống dịch Covid 19, nhưng Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N vẫn rủ nhau đến quán Karaoke Không Gian Xưa để hát. Tại đây, T khởi xướng mua ma tuý về sử dụng thì cả bọn thống nhất, T bỏ tiền mua ma tuý về cùng sử dụng, cả nhóm sẽ góp tiền trả lại sau. T liên lạc với 01 đối tượng tên L mua 01 chỉ ma tuý Khay với giá 2.000.000đ và 03 viên ma tu ý thuốc lắc 750.000đ. Sau khi có ma tuý, T bỏ ma tuý lên bàn, còn L cuộn tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng làm ống hút sử dụng ma tuý khay và đổ ma tuý khay ra đĩa sứ màu trắng để ai có nhu cầu thì sử dụng. Trong quá trình sử dụng ma tuý, H điện thoại cho Lê Thị Quỳnh TH đến chơi và trực tiếp đưa nửa viên thuốc lắc và ma tuý khay cho TH sử dụng. Kết quả điều tra xác định: TH là đối tượ ng đang thực hiện điều trị cai nghiện ma tuý bằng thuốc Methadone.

Xét thấy, đây là vụ án đồng phạm, cả 5 bị cáo đã cùng thống nhất ý chí về việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, trong quá trình sử dụng ma tuý H tự ý gọi điện thoại cho TH đến cùng sử dụng ma tuý, các bị cáo khác mặ c dù biết việc TH đến và sử dụng ma tuý nhưng không ngăn cản hoặc phản đối m à vẫn tiếp nhận ý chí của người đồng phạm. Do vậy, các bị cáo phải cùng chịu trách nhiệm hình sự về 1 tội phạm và hậu quả của tội phạm đó gây ra.

Với hành vi trên, Tòa án nhân dân quận Thanh Khê , thành phố Đà Nẵng đã xét xử cả 5 bị cáo về tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo tình tiết định khung hình phạt “Đối với người đang cai nghiện ” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo và đồng phạm là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền của nhà nước về quản lý các chất ma túy, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội . Mặc dù, các bị cáo biết rõ tác hại của ma túy và việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật hình sự, gây nên những hậu quả nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người và lan tràn tệ nạn xã hội, đồng thời còn là nguyên nhân phát sinh ra nhiều loại tội phạm khác nhưng vẫn bất chấp pháp luật để thực hiện, không những cùng nhau tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, các bị cáo còn tổ chức cho Lê Thị Quỳnh TH là đối tượng đang cai nghiện ma tuý bằng thuốc Methadone cùng sử dụng trái phép chất ma tuý. Mặt khác, các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội trong thời gian Đà Nẵng đang thực hiện giãn cách xã hội để phòng chống dịch bệnh Covid 19 theo Chỉ thị 16 của Thủ tướng Chính phủ , chứng tỏ các bị cáo không có ý thức, trách nhiệm với cộng đồng, cố ý vi phạm pháp luật một cách nghiêm trọng. Do đó, đối với các bị cáo cần phải xử lý nghiêm nhằm răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội .

Xét Tòa án cp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ và vai trò phạm tội của các bị cáo, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng và nhân thân của từng bị cáo, xử phạt bị cáo T 7 năm 6 tháng tù, 4 bị cáo còn lại mỗi bị cáo 7 năm tù là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, không nặng, nhẹ đối với bị cáo H. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo T, H, L, N không có tình tiết giảm nh ẹ nào mới phát sinh ; bị cáo Q có thêm tình tiết giảm nhẹ là gia đình có thân nhan có công với cách mạng và bị cáo có thành tích trong công tác được Tổng công ty bưu chính viễn thông Viettel tặng Giấy khen chiến sỹ thi đua cơ sở, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng cho bị cáo, nhưng xét mức án 7 năm tù đối với bị cáo là phù hợp, không nặng, chỉ là mức án khởi điểm của khung hình phạt . Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của cả 5 bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của kiểm sát viên .

[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[4]. Do không được chấp nhận kháng cáo, nên các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1/. Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

- Căn cứ: Điểm đ Khoản 2 Điều 255; đim s Khoản 1 Điều 51 ca Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Trần Kim Trọng T 07 (Bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 30/8/2020.

- Căn cứ điểm đ Khoản 2 Điều 255; điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Phm Bá H 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 30 /8/2020.

- Căn cứ điểm đ Khoản 2 Điều 255; điểm s Khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Duy L 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 04/9/2020.

- Căn cứ điểm đ Khoản 2 Điều 2 55; điểm s khoản 1 , 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Phạm Hữu Q 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 14/10/2020.

- Căn cứ điểm đ Khoản 2 Điều 255; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Nguyễn Đình N 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 14/10/2020.

2/ Về án phí: Buộc các bị cáo Trần Kim Trọng T, Phạm Bá H, Nguyễn Duy L, Phạm Hữu Q và Nguyễn Đình N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3/ Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2021/HS-PT ngày 07/07/2021 về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý

Số hiệu:64/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về