Bản án 64/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TRÀ VINH, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 64/2020/HS-ST NGÀY 21/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 21 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2020/HSST, ngày 19 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2020/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Quách Mạnh T (tên gọi khác: H), sinh ngày 09/9/1988; nơi cư trú: số EC Hùng V, khóm B, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: hoa; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quách Thanh H, sinh năm 1968 và bà Lâm Thị S, sinh năm 1967. Anh chị em ruột có 02 người, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 1989. Tiền án: không; tiền sự: 01 lần (Ngày 29/5/2019 bị Công an thành phố Trà Vinh xử phạt 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy). Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/6/2020 sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Huỳnh Thanh D, sinh năm 1953 (có mặt) Nơi cư trú: số GE Hùng V, khóm B, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

- Người làm chứng: Anh Huỳnh Tấn P, sinh năm 1985 (vắng mặt) Nơi cư trú: số GE Hùng V, khóm B, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

o khoảng 19 giờ 00 phút ngày 23/6/2020, bị cáo Quách Mạnh T điện thoại cho anh Huỳnh Tấn P, sinh năm 1985, ngụ số GE, khóm B, phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, rủ đi uống cà phê thì anh P đồng ý, đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, bị cáo đi bộ đến khu vực chùa Long B thuộc phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, thì gặp anh P. Tại đây, anh P điều khiển xe mô tô biển số 84D1-127.xx chở bị cáo đến quán cà phê không tên thuộc phường C, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, để uống nước. Lúc này, bị cáo rủ anh P hùn tiền mua ma túy đá sử dụng thì anh P đồng ý. Bị cáo và anh P thỏa thuận hùn tiền với nhau mỗi người 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) để mua 01(một) tép ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) về sử dụng, nhưng lúc đó anh P không có tiền nên bị cáo ứng ra trước, sau đó anh P sẽ trả lại tiền cho bị cáo sau. Tiếp tục, anh P điều khiển xe mô tô chở bị cáo ghé tiệm tạp hóa không rõ bảng hiệu tại phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, để bị cáo mua nước uống, còn anh P một mình chạy xe về nhà lấy dụng cụ sử dụng ma túy rồi quay lại chở bị cáo đi trên các tuyến đường thành phố T, tỉnh Trà Vinh. Khi chạy đến khu vực đèn xanh-đỏ giao nhau giữa đường Nguyễn Thị Minh K và Trần P thì bị cáo nói với anh P chạy xe vào hẻm và dừng xe lại chờ bị cáo, sau đó bị cáo một mình đi bộ đến nhà người đàn ông tên thường gọi Q khoảng 50 tuổi tại khóm E, phường G, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, để mua 01 (một) tép ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), khi mua được ma túy bị cáo cầm trong lòng bàn tay phải rồi quay trở ra xe của anh P đang đợi sẵn, sau đó anh P điều khiển xe chở bị cáo chạy hướng ra đường Kiên Thị N, khi chạy đến đầu hẻm số AF đường Kiên Thị N thuộc khóm C, phường G, thành phố Trà V, tỉnh Trà Vinh, thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang và tiến hành tạm giữ tang vật gồm: 01 (một) phong bì màu trắng bên ngoài dán kín có dán giấy niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh số 220/M, ngày 26/6/2020, có chữ ký của cán bộ Nguyễn Văn Mạnh, chữ ký của Ngô Chí Thơ cùng dấu mộc tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh; 01 (một) nắp nhựa màu trắng trên nắp có đụt hai lỗ, một lỗ gắn ống nhựa dạng ống hút màu đỏ, một lỗ gắn một đoạn ống thủy tinh hình trụ tròn; 01 (một) điện thoại di động Iphone, kèm theo sim số 09395227XX; 01 (một) điện thoại di dộng nhãn hiệu SɅMSUNG, màu trắng loại cảm ứng, kèm theo sim số 09329481XX (sim 2); 01 (một) bật lửa tự chế có ghi chữ MAISO HOANG LUAN VINAR ; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại WAVE α, màu sơn đỏ, biển số 84D1-127.xx.

Ngày 24/6/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh tiến hành trưng cầu giám định chất ma túy tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh.

Tại bản kết luận giám định số: 220/KLGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh kết luận: Tinh thể rắn đựng trong 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng tím được niêm phong trong gói niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng: 0,1945 gam.

Qua điều tra, bị cáo còn khai nhận trong tháng 6/2020 bị cáo thực hiện hành vi mua ma túy đá của người đàn ông tên thường gọi là Q được 04 lần, cụ thể sau đây:

- Lần thứ 1: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 12/6/2020 bị cáo một mình đi đến nhà của anh Q tại khóm 5, phường 7, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, hỏi mua 01 (một) tép ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), thì anh Q đồng ý bán và anh Q là người trực tiếp lấy tiền của bị cáo.

- Lần thứ 2: Vào khoảng 13 giờ đến 13 giờ 30 phút ngày 15/6/2020, bị cáo một mình đi đến nhà của anh Q tại khóm 5, phường 7, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, hỏi mua 01 (một) tép ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), thì anh Q đồng ý bán và anh Q là người trực tiếp lấy tiền của bị cáo.

- Lần thứ 3: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 18/6/2020, bị cáo điện thoại cho anh Huỳnh Tấn P, để cùng nhau mua ma túy đá về sử dụng. Lúc này, bị cáo và anh P thỏa thuận mỗi người hùn 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) để mua 01 (một) tép ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), sau khi thỏa thuận xong anh P điều khiển xe mô tô chở bị cáo đến hẻm nhà của anh Q để mua ma túy đá. Khi đến nơi, anh P dừng xe để bị cáo đi bộ đến nhà anh Q hỏi mua 01 (mộ) tép ma túy đá với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), thì anh Q đồng ý bán và anh Q là người trực tiếp lấy tiền của bị cáo.

- Lần thứ 4: Vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 21/6/2020, bị cáo và anh P thỏa thuận với nhau hùn tiền mỗi người 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) để mua ma túy đá về sử dụng, sau khi thỏa thuận xong anh P điều khiển xe chở bị cáo đến nhà anh Q như lần trước để bị cáo trực tiếp mua 01(một) tép ma túy đá của anh Q với giá 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), anh Q là người trực tiếp lấy tiền của bị cáo.

Quá trình điều tra bị cáo Quách Mạnh T khai nhận vào ngày 23/6/2020 có rủ anh Huỳnh Tấn P, hùn tiền mua ma túy đá về sử dụng. Qua làm việc, anh P không thừa nhận mình có hùn tiền với bị cáo mua ma túy về sử dụng và cũng không biết bị cáo có cất giấu 01 (một) tép ma túy đá trong người. Đồng thời, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tiến hành cho anh P và bị cáo đối chất, qua đối chất anh P cũng không thừa nhận mình có hùn tiền với bị cáo mua ma túy đá về sử dụng nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, không có cơ sở xử lý. Khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với anh Huỳnh Tấn P thừa nhận vào ngày 21/6/2020 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đá cùng với bị cáo tại bãi đất trống thuộc phường E, thành phố T, tỉnh Trà Vinh, nhưng không biết từ đâu mà bị cáo có ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với anh Huỳnh Tấn P số tiền 750.000 đồng (bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Hiện nay, anh P đã chấp hành đóng phạt xong.

Đối với người đàn ông tên thường gọi là Q khoảng 50 tuổi đã bán ma túy đá cho bị cáo, quá trình khởi tố điều tra làm rõ bị cáo khai nhận không rõ nhân thân và địa chỉ cũng như tên tuổi của người này, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh, chưa xác minh làm rõ xử lý được, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Về vật chứng: Thu giữ lúc bắt quả tang vẫn còn đang tạm giữ.

Tại bản cáo trạng số: 67/CT-VKS-HS ngày 18/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố Quách Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo Quách Mạnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như bản cáo trạng đã nêu. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án và nhân thân của bị cáo. Vị đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Quách Mạnh T từ 02 năm đến 03 năm tù. Đồng thời đề nghị xử lý tang vật chứng và buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Trà Vinh, Điều tra viên. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Quách Mạnh T đã khai nhận: Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 23/6/2020 anh Huỳnh Tấn P điều khiển xe mô tô biển số 84D1-127.xx chở bị cáo vào con hẻm gần đèn xanh-đỏ giao nhau giửa đường Nguyễn Thị Minh K và Trần P và dừng lại, bị cáo một mình đi bộ đến nhà người đàn ông tên Q mua một tép ma túy đá với giá 300.000 đồng, sau khi mua được ma túy bị cáo cầm trên tay rồi đi ra xe, Phong chở bị cáo chạy đến đầu hẻm số AF đường Kiên Thị N thuộc khóm C, phường G, thành phố T, thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật.

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với tang vật chứng đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Quách Mạnh T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh đã truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng không bổ sung tài liệu, đồ vật và không đề nghị triệu tập thêm người tham gia tố tụng. Xác định tư cách người tham gia tố tụng theo quyết định đưa vụ án ra xét xử là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Xét thấy bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Trà Vinh truy tố bị cáo Quách Mạnh T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định của pháp luật, không oan, không sai.

[4] Xét tính chất của vụ án thì hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, ma túy là chất gây nghiện rất độc hại, nó không chỉ làm ảnh hưởng đến sức khỏe, khả năng tham gia lao động, đến sự phát triển bình thường về trí tuệ của người sử dụng, mà nó còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác rất nguy hiểm. Do đó, cần xử lý nghiêm đối với bị cáo để răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, khi phạm tội bị cáo cũng đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Nghĩ nên xem đây là những tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Huỳnh Thanh D có yêu cầu được nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại @, biển số 84D1-127.xx và anh Huỳnh Tấn P có yêu cầu được nhận lại tài sản là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng loại cảm ứng đã qua sử dụng không liên quan đến vụ án.

[5] Về vật chứng: 01 phong bì màu trắng bên ngoài dán kín có dán giấy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh số 220/M ngày 26/6/2020; 01 điện thoại di động Iphone kiểu máy MD127LL/A, số sê ri: DNQGVKI5DPXX, IMEI: 0129570012800XX, kèm sim số 09395227XX đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng loại cảm ứng, bị nứt mặt kính phía trước, model: SM-G7102, FCCID: A3LSMG7102, số sê ri: RF1F20RYHXX, IMEI: 3599070543437XX kèm sim số 09329481XX (sim 2) đã qua sử dụng; 01 nắp nhựa màu trắng trên nắp có đụt hai lỗ, một lỗ gắn ống nhựa dạng ống hút màu đỏ, một lỗ gắn một đoạn ống thủy tinh hình trụ tròn; 01 bật lửa tự chế có ghi chữ MAISO HOANG LUAN VINA đã qua sử dụng; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại VAVE @, màu sơn đỏ, số máy: ZS152FMH* 32136617*, số khung: VHCWCG032HC0004XX biển kiểm soát 84D1-127.xx đã qua sử dụng.

Nghĩ nên tịch thu tiêu hủy và trả lại cho bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Quách Mạnh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Quách Mạnh T 01 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/6/2020.

Căn cứ: Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì màu trắng bên ngoài dán kín có dán giấy niêm phong của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Trà Vinh số 220/M ngày 26/6/2020; 01 nắp nhựa màu trắng trên nắp có đụt hai lỗ, một lỗ gắn ống nhựa dạng ống hút màu đỏ, một lỗ gắn một đoạn ống thủy tinh hình trụ tròn; 01 bật lửa tự chế có ghi chữ MAISO HOANG LUAN VINA đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo Quách Mạnh T 01 điện thoại di động Iphone kiểu máy MD127LL/A, số sê ri: DNQGVKY5DPXX, IMEI: 0129570012800XX, kèm sim số 09395227XX đã qua sử dụng. Trả lại cho ông Huỳnh Thanh D 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại VAVE @ màu sơn đỏ, số máy: ZS152FMH*32136617, số khung: VHCWCG032HC0004XX biển kiểm soát 84D1-127.xx đã qua sử dụng. Trả lại cho anh Huỳnh Tấn P 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu trắng loại cảm ứng, bị nứt mặt kính phía trước, model: SM-G7102, FCCID: A3LSMG7102, số sê ri: RF1F20RYHXX, IMEI: 3599070543437XX kèm sim số 09329481XX (sim 2) đã qua sử dụng.

Căn cứ: Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Án sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HS-ST ngày 21/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:64/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Trà Vinh - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về