Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHO QUAN - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 64/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 31/12/2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện Nho Quan mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 208/2020/TLST-HNG§ ngµy 11/8/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/12/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ng, sinh năm 1983.

Địa chỉ: Thôn M, xã L, huyện Q, tỉnh Ninh Bình.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1976.

Địa chỉ: Thôn M, xã L, huyện Q, tỉnh Ninh Bình.

Người làm chứng: Bà Đinh Thị L, sinh năm 1962.

(Chị Nguyệt, anh Hào có mặt, bà Lương vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 03/8/2020 và các lời khai cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Trần Thị Ng trình bày:

Ngày 13/02/2007 chị Trần Thị Ng đăng ký kết hôn với anh Nguyễn Văn H tại Ủy ban nhân dân xã Phú Lộc, huyện Nho Quan trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống nhờ nhà đất của bố mẹ chị Ng tại thôn M, xã L. Năm 2008, vợ chồng chị làm nhà rồi chuyển ra ở riêng cũng tại thôn M, xã L. Sau khi kết hôn, vợ chồng chị sống hạnh phúc được khoảng 10 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Tuy vợ chồng không xảy ra cãi vã, đánh chửi nhau xong từ năm 2018 giữa chị Ng, anh H không tìm được tiếng nói chung, dù sống chung một mái nhà xong vợ chồng đã ly thân không ai quan tâm tới ai nữa. Nguyên nhân chính dẫn tới mâu thuẫn vợ chồng chị Ng là do anh H thường xuyên uống rượu, đánh bài bạc. Chị Ng nhiều lần khuyên nhủ nhưng anh H không thay đổi. Nay chị Ng nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thực sự sâu sắc, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Ng đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn H.

Chị Trần Thị Ng, anh Nguyễn Văn H có 02 con chung là các cháu Nguyễn Việt H1, sinh ngày 12/8/2007 và Nguyễn Khánh L, sinh ngày 21/12/2012. Chị Ng đề nghị được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung. Trường hợp anh H có nguyện vọng nuôi con, chị Ng nhất trí để anh H nuôi cháu Nguyễn Việt H1, chị Nguyệt nuôi cháu Nguyễn Khánh L. Chị Ng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Nếu chị Ng nuôi cả hai con, chị Ng không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết việc chia tài sản, công nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Văn H trình bày: Về quan hệ hôn nhân giữa anh H và chị Ng đúng như chị Ng đã trình bầy. Về tài sản chung, công nợ chung anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn giữa vợ và chồng theo chị Ng nói anh thường xuyên rượu chè cờ bạc là không chính xác. Anh H thừa nhận, anh có uống rượu và chơi bài nhưng không thường xuyên chỉ là chơi vui không ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Việc chị Ng kiên quyết ly hôn có níu kéo cuộc sống, vợ chồng cũng không hạnh phúc, chị Ng và anh H tuy sống chung cùng gia đình với nhau nhưng không có tiếng nói chung, chị Ng không quan tâm, chia sẻ những khúc mắc trong lòng với anh H. Từ năm 2018 do chị Ng nặng căn quả âm dương, thường đi lễ chùa nên không muốn gần gũi chồng. Anh H nhận thấy mình vẫn còn tình cảm với chị Ng và anh không muốn con cái phải sống cảnh thiếu bố hoặc thiếu mẹ, nên anh không muốn ly hôn.

Về việc nuôi con chung: Anh H nhất trí với ý kiến chị Ng, trường hợp vợ chồng ly hôn, anh cũng có nguyện vọng nuôi một cháu là Nguyễn Việt H1, chị Ng nuôi cháu Nguyễn Khánh L. Anh và chị Ng không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án, Thư ký từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện đúng đầy đủ các bước tố tụng và hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 5, 28, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ng. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Ng, anh Nguyễn Văn H.

Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự về việc nuôi con chung:

Chị Trần Thị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 21/12/2012.

Anh Nguyễn Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Việt H1, sinh ngày 12/8/2007.

Chị Ng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị Ng, anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn.

Về án phí: Chị Trần Thị Ng phải nộp áp phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Chị Trần Thị Ng, khởi kiện ly hôn và giải quyết tranh chấp việc nuôi con chung với anh Nguyễn Văn H cư trú tại thôn M, xã L, huyện Q, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện Nho Quan thụ lý giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ng theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chị Trần Thị Ng, anh Nguyễn Văn H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Lộc, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình ngày 13/02/2007, đây là hôn nhân hợp pháp. Từ khi kết hôn, vợ chồng chị Ng, anh H sống hạnh phúc được 10 năm đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Anh chị thừa nhận hai người không có tiếng nói chung; chị Ng không quan tâm, chia sẻ những khúc mắc trong lòng với anh H. Tại phiên tòa anh H xác định có níu kéo chị Ng nhưng chị Ng không tự nguyện vợ chồng sống cũng không hạnh phúc. Điều đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Ng, anh H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, chị Ng yêu cầu ly hôn với anh H là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Về việc nuôi con chung: Chị Trần Thị Ng, anh Nguyễn Văn H có hai con chung là cháu Nguyễn Việt H1, sinh ngày 12/8/2007 và cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 21/12/2012. Anh H, chị Ng thống nhất trong trường hợp ly hôn, anh H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Việt H; chị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh L. Chị Ng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau, anh chị có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc con chung sau khi ly hôn. Xét thỏa thuận của các đương sự là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, phù hợp với nguyện vọng của các cháu, nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của anh H, chị Ng về việc nuôi con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Ng, anh H đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Ng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về ly hôn) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Các điều 5, 28, 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Ng.

2. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Ng, anh Nguyễn Văn H.

3. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc nuôi con chung:

Chị Trần Thị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 21/12/2012; anh Nguyễn Văn H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Việt H1, sinh ngày 12/8/2007 đến tuổi trưởng thành và tự lập được cuộc sống. Chị Ng, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị Ng, anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn.

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Ng phải nộp tiền án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được đối trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí chị Ng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0000607 ngày 11/8/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nho Quan.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định của các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, chị Ng, anh H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2020/HNGĐ-ST ngày 31/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:64/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về