Bản án 64/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tàng trữ hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THÁI HOÀ - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 64/2019/HS-ST NGÀY 16/10/2019 VỀ TÀNG TRỮ HÀNG CẤM

Trong ngày 16 tháng 10 năm 2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân thị xã Thái Hoà, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 60/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 09 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Đình T; tên gọi khác: Không; sinh ngày 18 tháng 10 năm 1996, tại huyện Thanh C, tỉnh N; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Xóm a, xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình T, sinh năm 1972; con bà Đặng Thị X, sinh năm 1972; có vợ: Phan Thị V, sinh năm 1999 và chưa có con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 22/07/2019 đến ngày 31/07/2019 hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Trần Đình T, sinh năm 1972.

Trú tại: Xóm a, xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

- Người chứng kiến: Anh Vũ Xuân Đ- sinh năm 1994. Trú tại: Xóm 4, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ An. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 22/07/2019 Trần Đình T đã lên mang xã hội Faccbook tìm kiếm và liên hệ hỏi mua pháo của một người đàn ông ở khu vực thị xã T, tỉnh Nghệ An. Sau khi thống nhất người đàn ông đó đồng ý bán cho T mười hộp pháo hoa liên hoàn loại 49 quả với giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng) và thống nhất sẽ nhận tiền, giao hàng tại khu vực xóm a, xã N, thị xã T, tỉnh Nghệ An.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 22/07/2019 T một mình điều khiển xe ô tô nhãn hiệu MITUBISHI TRITON, màu nâu xám BKS 37C- 267.xx đi từ nhà đến thị xã T để mua pháo về sử dụng. Đến 21 giờ 50 phút cùng ngày T có mặt tại địa phận xóm a, xã N, thị xã T gặp một người đàn ông (T không biết tên, tuổi, địa chỉ) người đàn ông đó đưa cho T một thùng cát tông trong đó có mười hộp pháo, mỗi hộp có kích thước (17x17x10)cm, bên ngoài mỗi hộp được bao bọc giấy nhiều màu có in dòng chữ nước ngoài, bên trong mỗi hộp có chứa 49 quả hình trụ liên kết với nhau. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và dẫn giải đối tượng về trụ sở Công an thị xã Thái Hòa để điều tra làm rõ.

Tại Biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại ngày 23/7/2019 của Công an thị xã Thái Hoà xác định: 10 hộp hình chữ nhật, mỗi hộp có kích thước (17x17x10)cm, bên ngoài mỗi hộp được bao bọc giấy nhiều màu có in dòng chữ nước ngoài, bên trong có chứa 49 quả hình trụ liên kết với nhau nghi là pháo thu được của Trần Đình T có khối lượng 19 kg (mười chín ki lô gam)

Tại kết luận giám định số 312/KL-PC09(CN) ngày 30/07/2019, của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu vật thu giữ của Trần Đình T gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ).

Tại bản cáo trạng số: 64/CT-VKS-HS ngày 23 tháng 09 năm 2019, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thái Hoà đã truy tố Trần Đình T về tội “Tàng trữ hàng cấm” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 191 - BLHS.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm c Khoản 1, Khoản 4 Điều 191; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 65 - BLHS: Xử phạt bị cáo Trần Đình T từ 15 (mười lăm) đến 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 (ba mươi) đến 36 (ba sáu) tháng.

Hình phạt bổ sung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo với số tiền từ 10.000.000đ (mười triệu đồng) đến 15.000.000đ (mười lăm triệu đồng).

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 106 - BLTTHS, tuyên tịch thu, tiêu huỷ 09 hộp pháo hoa, mỗi hộp có kích thước 17x17x10 cm, bên trong mỗi hộp có chứa 49 quả hình trụ được liên kết với nhau, tổng khối lượng của chín hộp là 17,1 kg (đã lấy mẫu đi giám định 1,9 kg và sử dụng hết trong quá trình giám định). Vật chứng khác là 01 chiếc ô tô nhãn hiệu MITUBISHI TRITON, màu nâu xám BKS 37C- 267.19 đăng ký mang tên Trần Đình T. Quá trình điều tra đã xác định được chiếc xe thuộc quyền sở hữu của ông T (bố của T), ông T cho T mượn xe để đi công việc, không biết T sử dụng để đi mua pháo, nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã Thái Hòa đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu theo Quyết định xử lý vật chứng số 46 ngày 22/08/2019 là đúng quy định nên đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Bị cáo đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát đã đề nghị về tội danh, mức hình phạt và các vấn đề khác không tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 22 giờ 00 phút ngày 22/07/2019 tại xóm a, xã N, thị xã T cùng vật chứng thu giữ được. Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với lời khai người liên quan, người chứng kiến cũng như các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Từ đó đã xác định được khoảng 22 giờ ngày 22/07/2019 tại xóm a, xã N, thị xã T, tổ công tác Công an thị xã Thái Hòa phát hiện bắt quả tang Trần Đình T có hành vi “Tàng trữ hàng cấm” là pháo nổ. Số pháo nổ mà T tàng trữ khi bị bắt quả tang là 10 hộp có kích thước (17x17x10)cm, bên ngoài mỗi hộp được bao bọc giấy nhiều màu có in dòng chữ nước ngoài, bên trong mỗi hộp có chứa 49 quả hình trụ liên kết với nhau có tổng khối lượng là 19kg (mười chín kilôgam). Căn cứ vào kết quả giám định số 312/KL-PC09(CN) ngày 30/07/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu vật thu giữ của Trần Đình T gửi giám định là pháo có đầy đủ đặc tính của pháo nổ (có chứa thuốc pháo và khi bị kích thích hoặc đốt có gây tiếng nổ). Như vậy đã có đầy đủ yếu tố để kết luận hành vi của bị cáo Trần Đình T đã cấu thành tội “Tàng trữ hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 điều 191 - BLHS như Viện kiểm sát đã truy tố là có căn cứ.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước, mà còn gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật hình sự, ý thức được việc tàng trữ pháo nổ để sử dụng là bị pháp luật nghiêm cấm và trừng trị nghiêm, nhưng vẫn cố ý thực hiện, vậy cần xử phạt nghiêm hành vi phạm tội của bị cáo, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[4] Xem xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; nhân thân không có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành hành vi phạm tội, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 - Bộ luật hình sự.

[5] Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, tình hình đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương, kết hợp với việc xem xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, nhưng xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi thường trú rõ ràng nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ các điều kiện cải tạo giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 4 Điều 191 Bộ luật hình sự thì người phạm tội có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền và các hình phạt khác, nên áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.

[7] Về vật chứng vụ án: Vật chứng gồm 09 hộp pháo hoa, mỗi hộp có kích thước 17x17x10 cm, bên trong mỗi hộp có chứa 49 quả hình trụ được liên kết với nhau, tổng khối lượng của chín hộp là 17,1 kg (đã lấy mẫu đi giám định 1,9 kg và sử dụng hết trong quá trình giám định). Nay cần tịch thu tiêu hủy theo Điểm a Khoản 2 Điều 106 BLTTHS; Điểm c Khoản 1 Điều 47 BLHS. Vật chứng khác là 01 chiếc ô tô nhãn hiệu MITUBISHI TRITON, màu nâu xám BKS 37C- 267.19 đăng ký mang tên Trần Đình T. Quá trình điều tra đã xác định được chiếc xe thuộc quyền sở hữu của ông T, ông T cho Trần Đình T mượn xe để đi công việc, không biết tài sử dụng để đi mua pháo, nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã Thái Hòa đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu theo Quyết định xử lý vật chứng số 46 ngày 22/08/2019 là đúng quy định.

[8] Đối với người đàn ông đã có hành vi bán pháo cho Trần Đình T, do không xác định được lai lịch, địa chỉ cụ thể nên chưa có cơ sở để xử lý, đề nghị Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ để xử lý theo quy đinh.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điểm c Khoản 1, Khoản 4 Điều 191; Điểm i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 65 - BLHS.

Tuyên bố bị cáo Trần Đình T phạm tội “Tàng trữ hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Trần Đình T 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 30 (ba mươi) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Phạt bổ sung 10.000.000đ (mười triệu đồng).

Giao bị cáo Trần Đình T về cho UBND xã H, huyện T, tỉnh Nghệ An nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Trần Đình T thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Trần Đình T cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 47 - BLHS; Điều 106 - BLTTHS; Khoản 2 Điều 11 Thông tư số 01/2017/TT-BTP ngày 23/01/2017 quy định về quản lý kho vật chứng, tài sản tạm giữ trong Thi hành án Dân sự: Tịch thu, tiêu huỷ 09 (chín) hộp pháo hoa, mỗi hộp có kích thước 17x17x10 cm, bên trong mỗi hộp có chứa 49 quả hình trụ được liên kết với nhau, tổng khối lượng của 09 (chín) hộp là 17,1 kg (mười bảy phẩy một kilogam), số còn lại đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

Tang vật trên hiện có tại Ban chỉ huy quân sự thị xã Thái Hoà theo Biên bản bàn giao VKTBKT - ĐD, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ theo Nghị định 25/NĐ-CP; Nghị định 26/NĐ-CP ngày 25/09/2019, giữa Công an thị xã Thái Hoà và Ban chỉ huy quân sự thị xã Thái Hoà. Giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thái Hòa phối hợp với Ban chỉ huy quân sự thị xã Thái Hòa xử lý theo quy định.

Án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 136 - BLTTHS; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án (kèm theo danh mục án phí, lệ phí Toà án): Buộc bị cáo Trần Đình T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án, hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

403
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HS-ST ngày 16/10/2019 về tàng trữ hàng cấm

Số hiệu:64/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Thái Hòa - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về