Bản án 634/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội giết gười, cướp tài sản và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 634/2020/HS-PT NGÀY 26/10/2020 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI, CƯỚP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 26 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm C khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 12/2019/TLPT-HS ngày 03 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Phạm Thành C và đồng phạm.

Do có kháng cáo của các bị cáo Phạm Thành C, Đặng Minh C1 và Đặng Vũ T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Thành C (tên gọi khác: C Đen), sinh năm 1990; Nơi cư trú:

phường Long Bình, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: Khu phố 3, phường Tam Hiệp, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Không; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không. Con ông Phạm Văn T và bà Hồ Thị B; Vợ là Lê Huỳnh M và có 01 con C1 là Phạm Thị Ngọc A, sinh năm 2012. Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 22/4/2019, Phạm Thành C bị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”. Tổng hợp hình phạt: 7 năm tù. (Bản án số 17/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông).

Ngày 28/12/2017, bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra C an huyện Đức Hòa ra quyết định truy nã đến ngày 12/6/2018 thì bị bắt tạm giam cho đến nay (có mặt).

2. Đặng Minh C1, sinh năm 1985 (tên gọi khác: C1 Cận); Nơi cư trú:phường Lê Mao,  Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An; Chỗ ở hiện nay: phường Trảng Dài, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Sữa chữa điện thoại; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Đặng Văn H và bà Nguyễn Thị T; Vợ là Nguyễn Thị H, sinh 1984 (đã chết) và có 02 con, lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: không;

Bị bắt tạm giam từ ngày 21/6/2017 cho đến nay (có mặt).

3. Đặng Vũ T, sinh năm 1987; Nơi cư trú: phường Long Bình, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Tài xế; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không. Con ông Đặng Văn V và bà Nguyễn Thị C; Vợ là Võ Thị Ái K, sinh năm 1988 và có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2014. Tiền sự: không, tiền án: Ngày 15/9/2017 bị Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 14 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”, bị cáo chưa chấp hành hình phạt tù;

Ngày 02/8/2017, bị cáo ra đầu thú và bị tạm giam cho đến nay (có mặt).

-Người bào chữa cho bị cáo Phạm Thành C và Đặng Vũ T:

Luật sư Trương Nhật Quang, Văn phòng luật sư Ánh Sáng Luật, thuộc đoàn luật sư tỉnh Bình Dương (Có mặt).

- Bị hại:

1. Huỳnh Thanh P, sinh năm 1988;

Nơi cư trú: xã Hóa An, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở: phường Tân Phước Khánh, huyện Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (Vắng mặt).

2. Lê Văn N, sinh năm 1997;

Nơi cư trú: xã Phượng Dục, huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội; Chỗ ở hiện nay: phường Long Bình, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

3. Trần Quốc Q, sinh năm 1983;

Nơi cư trú: phường Long Bình, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

- Người có Q và nghĩa vụ liên quan:

1. Nguyễn Nguyên Duy P, sinh: 1999; Nơi cư trú: phường Hố Nai, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

2. Trần Ngọc Diễm M, sinh năm 1992; Nơi cư trú: phường An Bình, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

3. Nguyễn Văn C, sinh năm 1993; Nơi cư trú: xã Mỹ Quý Tây, huyện Đức Huệ, Long An (Vắng mặt).

4. Võ Thu H, sinh năm 1992; Nơi cư trú: phường Tân Mai, Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (Vắng mặt).

5. Đặng Thị T, sinh năm 1992; Nơi cư trú: phường Trảng Dài, Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai (Vắng mặt).

6. Phan Văn N, sinh năm 1970; Nơi cư trú: khu phố Nhị Đồng 2, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương (Vắng mặt).

7. Nguyễn Trọng P, sinh năm 1960; Nơi cư trú: quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

-Người kháng cáo: Bị cáo Phạm Thành C, Đặng Minh C1 và Đặng Vũ T

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Minh C1 là đối tượng nhiều lần mua, bán thuốc lá ngoại nhập lậu từ cửa khẩu Tho Mo, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An vận chuyển bằng xe ô tô về tỉnh Đồng Nai tiêu thụ. Ngày 10/4/2017 C1 trên đường vận chuyển thuốc lá ngoại về đến Thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương thì bị nhóm Trần Quốc Q sử dụng vũ khí chặn cướp. Khi nghe sự việc, C nói khoảng một tuần nữa về Biên Hòa lấy khẩu súng Cotl 45 và 4 viên đạn cho C1 mượn. Ngày 11/6/2017 C lấy khẩu súng trên bỏ vào túi đeo da bò và qua nhà C1, nhưng không gặp C1, C điện hỏi C1 gửi cho ai, C1 nói đưa cho em gái của C1 tên Đặng Thị Thành. Thành nhận giữ nhưng không kiểm tra trong túi đựng vật gì, vì đang bận mua bán. Chiều cùng ngày C1 đi C chuyện về nhà Đặng Thị Thành lấy khẩu súng, 4 viên đạn cùng Phan Thanh Tài thuê xe ô tô chở nhau đến cửa khẩu Tho Mo, huyện Đức Huệ đặt mua thuốc lá ngoại của Nguyễn Văn C, nhưng Ca không bán, lúc này C1, Tài ở lại đến trưa ngày hôm sau, C1, Tài đến nhà Lại Tiến Hành nói chuyện và lấy khẩu súng ra cho Hành xem, mục đích để hăm dọa cảnh cáo Hành về chuyện Hành chỉ xe chở thuốc lá của C1 cho nhóm Q Cướp. Hành xem cây súng cho rằng “Đây là súng C cụ hỗ trợ, bắn đạn cao su, dùng để phòng thân”, Hành không nói gì, sau đó C1 và Tài ra về.

Ngày 17/6/2017 do Đặng Minh C1 thiếu nợ tiền mua, bán thuốc lá ngoại của Nguyễn Văn C và tiền vay bên ngoài với lãi xuất cao không có khả năng chi trả, C1 nảy sinh ý định cướp thuốc lá của những người vận chuyển thuốc lá bằng xe ô tô từ cửa khẩu Tho Mo, huyện Đức Huệ đem về bán lấy tiền trả nợ. C1 điện thoại tập hợp Phạm Thành C, Lại Văn L, Ngụy Văn Q, Đặng Vũ T, Phan Thanh Tài rủ đi cướp, cả nhóm đồng ý. C1 lấy giấy phép lái xe của Q, C1 cùng các đối tượng trên đến Thành phố Hồ Chí Minh, C1 trực tiếp thuê xe ôtô hiệu CHEVROLET biển kiểm soát 61A-218.23 của anh Phan Văn Ngoan và xe ôtô hiệu KIA Morning biển số 51A-430.87 của anh Nguyễn Trọng Phổ, Q thuê xe ô tô nhản hiệu Inova không xác định được chính chủ và biển số xe, C1 mua hợp nước sơn hiệu Bạch Tuyết màu đen, đem theo khẩu súng Colt 45. Sau khi chuẩn bị P tiện và dụng cụ xong, C1 lấy súng Colt 45 đưa cho C và nói “Khi đi cần thiết thì sử dụng” và chở nhau về khu vực cầu vượt huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh ăn tối. Tại đây C1 nói “Tối nay đi mua thuốc lá về bán, nếu gặp xe chở thuốc lá chạy ra thì chặn cướp để anh lấy tiền trả nợ cho Ca”, đồng thời kêu Lại Văn L điều khiển xe chở Phạm Thành C đi trước, còn Ngụy Văn Q điều khiển xe chở Đặng Vũ T, C1 điều khiển xe chở Tài đi theo sau. Trên đương đi, C1 lấy hợp nước sơn đưa cho Tài và nói khi nào phát hiện xe chở thuốc đến tạt vào kính trước xe cho tài xế không thấy đường lái để dừng lại, mình xuống cướp thuốc lá, Tài không nói gì khui mở nắp hộp nước sơn để dưới sàn xe ngay vị trí Tài ngồi (Ghế phụ).

Trước đó khoảng 16 giờ 00 C1 nhắn tin vào số thuê bao 0944667177 máy điện thoại của Ca. Nội dung tin nhắn “Để anh lên gặp em bàn bạc chuyện tiếp tục mua bán thuốc lá, để trả nợ từ từ”, Ca đọc tin nhắn không trả lời, khoảng 10 phút sau C1 tiếp tục nhắn tin, nội dung “Từ giờ đến sáng có Xe thuốc nào từ Tho Mo chạy ra, nhắn tin biển số xe cho anh, khi xe về tỉnh Bình Dương anh chặn cướp” Ca trả lời “Không biết xe nào chở thuốc hết”, còn anh có cướp thì về Bình Dương cướp, ở đây không có xe chở thuốc mà cướp.

C1 điện thoại kêu Q chở Tấn chạy vào Tho Mo chọn đoạn đường vắng dừng xe quan sát nếu thấy xe biển số 51G-242.58 của Trần Quốc Q thì điện báo cho C1 để chặn cướp, Q điều khiển xe đến ngã 3 thuộc thị trấn Hiệp Hòa, Q dừng xe lại quan sát. L lái xe chạy qua C an huyện Đức Huệ khoảng 3-4 km đậu khoảng 30 phút, lúc này Trịnh Hoàng Tú đi xe môtô đến cầm đèn pin thấy L và đuổi đi, nên L điện thoại cho C1, C1 kêu bỏ đi đi, L chạy xe đến ngã 3 ngay thị trấn Hiệp Hòa gặp xe Q, L kêu Q đổi xe và L lái xe Kia Morning chở C tiếp tục chạy đến vòng xoay gần C an huyện Đức Huệ đậu để quan sát. Lúc này Trịnh Hoàng Tú điện cho Lại Tiến Hành biết, lúc này là rạng sáng ngày 18/6/2017. C1 quay xe lại gặp Tú và nói “Em qua đây cướp đồ, Anh có thấy xe nào ra thì điện thoại cho em để em cướp” Tú hiểu C1 muốn cướp thuốc lá, Tú không đồng ý, nên Tú nói “Muốn cướp về Củ Chi hay Đồng Nai mà cướp, ở đây có gì đâu mà cướp”, C1 thấy Tú đang cầm điện thoại nên giật máy Tú và lưu số điện thoại của C1 vào máy Tú. Sau đó Tú, C1 và Q chạy đi về hướng huyện Đức Huệ. Tú về đến xã Hiệp Hòa, Đức Hòa, thấy Hành điều khiển xe Mô tô đến và kêu Tú dừng xe lại, Hành kêu Tú cho số điện thoại của C1, xong Hành điện gặp C1 hỏi “Nghe nói mày bị C an tỉnh Bình Dương bắt về hồi nào”, C1 nói “Mới nhảy rào ra”, Hành nói “Nay mày lên đây làm gì”, C1 nói “Em lên đây canh xe chở thuốc lá ngoại ở cửa khẩu Tho Mo ra để cướp”, Hành trả lời “mày có cướp thì về Biên Hòa cướp, mày cướp ở đây tao báo C an bắt mày, C1 nói “Chuyện của ai người đó biết, đừng xen vào chuyện của tôi”, nói chuyện xong Hành tắt máy. Sau đó Hành gọi điện thoại báo cho Trần Quốc Q biết có nhóm Biên Hòa lên cướp xe thuốc lá. Q lấy khẩu súng loại ổ quay (Rulo) màu trắng, số D166717 đã lắp sẵn đạn, bỏ vào trong túi da màu nâu, sọc carô để vào hộp gần cần số xe và điện cho vợ tên Huỳnh Thanh P và Lê Văn N biết để theo hộ tống.

Lúc này Lại Văn L và Ngụy Văn Q phát hiện Trần Quốc Q điều khiển xe ô tô biển số 51G-242.58 đang vận chuyển 1.580 cây thuốc lá ngoại mua của Nguyễn Văn C và xe ô tô biển số 60C- 260.13 do Lê Văn N chở Huỳnh Thanh P trong cửa khẩu Tho Mo chạy ra đến vòng xoay huyện Đức Huệ và điện cho C1 biết, C1 xác định 02 xe ô tô trên của nhóm Q. Lúc này C1 cùng Tài về khu vực cây xăng Cẩm Tú dừng xe lại chờ xe Q đến và C1 điện kêu L, Q bám theo xe của Q. N điều khiển xe đến ngã 4 đèn xanh đỏ gần C viên thị trấn Hậu Nghĩa, P ngồi ghế phụ phát hiện xe L chạy đuổi theo cướp xe thuốc của Q, P kêu N vượt qua xe L cản lại, lúc này cả 02 xe chạy tốc độ cao khoảng 80 -100 km/h. Q chạy đến nhà nghỉ Cẩm Tú thuộc xã Đức Lập Thượng, Đức Hòa ngừng lại đón Nguyễn Nguyên Duy Phong, lúc này C1 phát hiện xe của Q đi trước và xe của N đi theo sau vừa chạy qua, C1 kêu Tài dậy đuổi theo xe Q còn xe của L và Q vừa đến. Khi đến ngã 4 Đức Lập, cách nhà nghỉ Cẩm Tú 660m, tại đây máy Camera ghi lại hình ảnh 04 xe ô tô trên hồi 2h53 phút ngày 18/6/2017, vận tốc xe của C1 và L chạy tốc độ cao, khoảng trên 100 km/h gần như song song với nhau, đuổi sát theo xe của N và định chạy vượt lên, còn xe của Q chạy liền phía sau. Lúc này xe N chạy phía trước lạng lách ép cản đường. Do muốn vượt lên và đuổi theo xe Q nên C1 chạy đụng đuôi xe của N, mục đích làm cho N sợ để cho xe C1 chạy vượt lên, sau đó C1 lái xe qua bên phải và lách chạy qua được xe của N. Lúc này C, L thấy xe bán tải của N chạy đụng vào đuôi xe của C1. L điều khiển xe bám theo, C lấy khẩu súng colt 45 đang đeo trên người lên đạn và đưa khẩu súng ra ngoài cửa ngay vị trí kính chiếu hậu, C bắn phía sau xe N 01 viên. L nghe tiếng súng C bắn nên nhấp thắng lại, rồi tiếp tục buông ra đuổi theo, khoảng 05 giây sau, C tiếp tục bắn viên thứ 02 (02 viên đạn này đều trúng vào thùng phía sau xe của N). Lúc này xe C1 vừa chạy vượt lên xe N nhưng xe Q chạy phía trên nên xe C1 đụng vào đuôi xe của Q làm xe C1 tắt máy và dạt vào bên trái đường. Cùng lúc này xe của N vừa chạy đến, N không kịp xử lý nên đầu xe của N đụng mạnh vào đuôi xe của C1, làm xe N bị bung túi khí và dừng lại tại trước cửa hàng vật liệu xây dựng Phú Lạc Gia thuộc ấp Chánh, Đức Lập Thượng, Đức Hòa, Long An có Camera ghi lại vào lúc 2h54. Lúc này xe L lách sang trái xe của N và C tiếp tục bắn viên thứ 03 (cách viên thứ 02 khoảng 1 phút) trúng vào bên hông phải phía cửa sau của xe N, đầu đạn xuyên qua cánh cửa sau và xuyên thủng dính vào phía sau ghế P đang ngồi. Sau đó L lái xe chạy lên song song với xe của Q, Q nhìn kính chiếu hậu thấy nên Q cầm súng bằng tay phải và chuyền qua tay trái hạ kính xe xuống, bắn liên tiếp 02 viên, trong đó 01 viên trúng xuyên thủng qua vô lăng và làm bể màn hình điện thoại di động của L, L giảm tốc độ. Q tiếp tục điều khiển xe chạy về Đồng Nai. Xe Q vừa chạy đến dừng lại chở C1 và L quay lại chở Tài về Thành phố Biên Hòa, Đồng Nai, trên đường L chở C đến xã Hóa An, Thành phố Biên Hòa, C phi tang khẩu súng dưới lề đường bên phải (đường đang thi C), nên không thu giữ được, còn xe của N bị hư hòng, P điện thoại cho Ca và Hành nói xe bị tai nạn, đem xe ô tô đến kéo xe N về, trên đường đến cầu Thầy Cai thì bị lực lượng C an huyện Đức Hòa phát hiện.

Tại bản kết luận giám định số 2123/C54B ngày 21/6/2017 của Phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận 03 (ba) vỏ đạn đã bắn ký hiệu RA (01 vỏ); WCC71 (02 vỏ) và 02 đầu đạn đã bắn gửi giám định là đầu đạn và vỏ đạn quân dụng cỡ 11,43mm x 23,5mm, xuất xứ Mỹ. Loại đạn này sử dụng để bắn súng quân dụng Colt 45 cỡ nòng 11,43mm.

Tại kết luận số 4465/C09B ngày 03/10/2019 kết luận Súng ngắn Colt 45 tiêu chuẩn có tầm bắn 50m; Không đủ cơ sở xác định tầm sát thương của súng ngắn Colt 45 qua loại đạn Tại C văn số 375/CV/C09 ngày 08/10/2019 của Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh trả lời như sau: khẩu súng ngắn Colt 45 tiêu chuẩn, bắn với loại đạn tiêu chuẩn cỡ 11,43 x 23,5)mm ở khoảng cách 17,60m, đạn nổ vào cơ thể người có thể gây sát thương Tại biên bản khám xe ô tô biển số 60C-260.13 (Lê Văn N điều khiển chở Huỳnh Thanh P ngồi trên ghế phải (ghế phụ), ngang tài xế hồi 11giờ ngày 18/6/2017, thể hiện các dấu vết để lại cụ thể như sau: Hư hỏng phần đầu xe, nổ túi khí hai bên hàng ghế trước, bễ bánh xe sau bên trái, phía sau xe có vết trầy sướt;

Mặt ngoài cửa sau bên phải có vết thủng xuyên từ ngoài vào trong đường kính 12 cm, tâm cách mặt đất 120 cm, cách tâm trục bánh sau bên phải 138 cm, cách đầu tay cầm 16 cm, vết thủng làm rách da mặt sau ghế phụ cách sàn xe 62 cm, mặt trong bên phải ghế phụ giữa lớp đệm muốt và vải lót cách sàn xe 35 cm phát hiện 01 đầu đạn bằng kim loại; Mặt ngoài nắp thùng sau xe có 01 vết thủng đường kính 12 cm chiều hướng từ ngoài vào trong tâm cách mặt đất 110 cm, cách đèn tín hiệu phía sau bên phải 70 cm, không thủng qua lớp nhựa, bên trong có 01 đầu đạn; Mặt ngoài nắp thùng sau xe có 01 vết thủng đường kính 12 cm chiều hướng từ ngoài vào trong, tâm cách mặt đất 122 cm, cách đèn tín hiệu sau bên phải 62 cm, thủng qua lớp nhựa bên trong.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Phan Văn Ngoan là người cho bị cáo Đặng Minh C1 thuê xe ôtô hiệu CHEVROLET, màu ghi, biển kiểm soát 61A-218.23, bị hư hỏng, anh Ngoan sửa chữa hết 105.000.000đ và yêu cầu C1 bồi thường số tiền trên. Chị Huỳnh Thanh P, anh Lê Văn N và anh Trần Quốc Q không có yêu cầu bồi thường.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 60/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An đã Tuyên xử:

Tuyên bố:

Bị cáo Phạm Thành C phạm tội “Giết người”, “Cướp tài sản”, “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

Bị cáo Đặng Minh C1 phạm tội “Cướp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Bị cáo Đặng Vũ T phạm tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng điểm e, l khoản 1, Điều 123, điểm a khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50; Điều 38; Điều 15; Điều 57; Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Thành C 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”; 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp tài sản”; 01 (một) năm tù về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt C1 của 03 tội là 17 (Mười bảy) năm tù. Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt với bản án số 17/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, buộc bị cáo chấp hành hình phạt C1 của hai bản án là 24 (Hai mươi bốn) năm tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 12/6/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm a khoản 2 Điều 168; khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38; Điều 15; Điều 57; Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Đặng Minh C1 08 (tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”; 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Đặng Minh C1 chấp hành hình phạt C1 của hai tội là 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2017.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38; Điều 15; Điều 57; Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo: Đặng Vũ T 07 (Bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt với bản án số 395/2017/HS-ST ngày 15/9/2017 của Tòa án Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt C1 của hai bản án là 08 (tám) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/08/2017, nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 28/12/2016 đến ngày 03/01/2017 theo bản án 395/2017/HS-ST ngày 15/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ còn xử phạt các bị cáo Lại Văn L, Ngụy Văn Q và Phan Thanh Tài mỗi bị cáo 03 năm tù về tội cướp tài sản, tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và Q kháng cáo của các bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Lại Văn L, Ngụy Văn Q, Phan Thanh Tài không kháng cáo. Ngày 09 và 10/12/2020 các bị cáo Đặng Vũ T và Phạm Thành C có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 12/12/2019 bị cáo Đặng Minh C1 có đơn kháng cáo cho rằng không phạm tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng, đề nghị xem xét lại tội Cướp tài sản theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa phúc thẩm Các bị cáo Phạm Thành C và Đặng Vũ T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm đa tuyên, các bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử chấp đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo.

Bị cáo Đặng Minh C1 không thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng và tội cướp tài sản, bị cáo cho rằng bị cáo C có đưa cho bị cáo 1 gói bọc kín, bị cáo không biết đó là gì. Việc bị cáo đi cướp thuốc lá lậu là để lấy thông tin báo cho cơ quan chức năng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo.

i diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm vấn C khai tại phiên tòa và lời khai nhận tội của bị cáo C, Tấn thấy rằng; Bị cáo Đặng Minh C1 đã rủ rê, lôi kéo các bị cáo khác gồm L, Q, C, Tấn và Tài tổ chức cướp thuốc lá ngoại nhập của những người vận chuyển từ cửa khẩu Tho Mo, huyện Đức Huệ để bán lấy tiền. Các bị cáo đã chuẩn bị 01 lon nước sơn màu đen để tát vào kinh lái xe vận chuyển thuốc lá, 01 khẩu súng colt 45 và thuê 3 xe ô tô làm P tiện đi lên địa bàn huyện Đức Huệ. Khi phát hiện xe ô tô innova biển kiểm soát 51G-242.58 chở thuốc lá chạy từ Tho Mo ra và C1 biết đây là xe của Trần Quốc Q nên C1 kêu các bị cáo khác đuổi theo chặn cướp. C1 và các bị cáo khác chạy xe đuổi theo với tốc độ cáo, táo báo, liều lĩnh, đâm đụng xe của N để chặn cướp thuốc của Q, trong đó L lái xe cho C bắn 03 viên đạn đều trúng vào xe bán tải do N điều khiển chở P ngồi trong xe, trong đó có 01 viên xuyên thủng vào ghế ngay chỗ P Ngồi. Ngoài ra vào đầu tháng 6/2017 bị cáo Đặng Minh C1 còn có hành vi mượn khẩu sung colt 45 của Q đem về nhà cất giấu. Hành vi nêu trên của Các bị cáo đã cấu thành tội Cướp tài sản theo điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự. Hành vi cất giấu khẩu súng colt 45 của bị cáo Đặng Minh C1 đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự. Hành vi của Bị cáo C sử dụng súng Colt 45 bắn vào xe của N và P đã cấu thành tội giết người theo điểm e, l khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng như án sơ thẩm đã tuyên là có cắn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo Đặng Minh C1 cho rằng, không phạm tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng nhưng căn cứ vào các cứ có tại hồ sơ và lời khai của bị cáo C có đủ cơ sở kết luận vào đầu tháng 6/2017 C đã đưa khẩu súng Colt 45 cho C1 cất giấu. Trong vụ án này bị cáo C1 là kẻ cầm đầu, lôi kéo và phân C nhiệm vụ cho các bị cáo khác khi thực hiện vụ vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 08 năm tù về tội Cướp tài sản và 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng là có căn cứ.

Đối với bị cáo C và Tấn tham gia với vai trò đồng phạm bị cáo C là người thực hành, khi được C1 rủ đi cướp thuốc lá thì các bị cáo đã đồng ý ngay và tích cực thực hiện, bị cáo C đã trực tiếp sử dụng súng quân dụng là loại Colt 45 bắn nhiều phát đạn vào xe của N, P để nhằm chặn cướp thuốc lá, trong đó có 01 viên đạn xuyên thủng ghế ngay chổ P ngồi, việc P không chết là do có vật cứng chắn lại viên đạn. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo C 12 năm tù về tội giết người, 04 năm tù về tội Cướp tài sản và 01 năm tù về tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng là phù hợp không nặng. Bị cáo Tấn tham gia giúp sức cho C1 khi cùng với Q chạy xe vào Tho Mo để tìm xe chở thuốc lá báo cho C1, bị cáo có 1 tiền án, nay phạm tội là tái phạm, Vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Tấn mức án 07 năm tù là phù hợp không nặng. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo không xuất trình được thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

-Luật sư bào chữa cho bị cáo C và Tấn trình bày:

Đối với bị cáo C bị xét xử về tội Giết người do sử dụng 1 khẩu súng colt 45 bắn 3 phát đạn vào thùng và cánh cửa xe bán tải mà không nhằm vào người nào, do đó xét xử bị cáo về tội Giết người là chưa có căn cứ vững chắc. Tuy nhiên, bị cáo Côgn thành khẩn khai báo, phạm tội không gây thiệt hại, có ông, bà ngoại được thưởng huân chương kháng chiến, cha bị cáo mất sức lao động, có con nhỏ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

Đối với bị cáo Tấn, bị cáo có vai trò hạn chế nhất nhưng hình phạt lại cao hơn so với các bị cáo khác từ bị cáo C1 là người chủ mưu. Bị cáo có tình tiết đầu thú, về tình tiết tặng tặng “Tái phạm” mà án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là không đúng vì hành vi đánh bạc được xét xử sau khi bị cáo phạm tội “Cướp tài sản”. Bị cáo có ông bà được tặng thưởng huân chương kháng chiến. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Tấn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của các bị cáo đúng về hình thức, nội dung và được nộp trong hạn luật định nên kháng cáo của các bị cáo được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm:

[2] Về nội dung:

[2.1] Bị cáo Đặng Minh C1 kháng cáo cho rằng không phạm tội “tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” và đề nghị xem xét lại tội “Cướp tài sản”. Xét các nội dung kháng cáo này của bị cáo C1 là không có căn cứ bởi lẽ: Căn cứ vào các chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai nhận của bị cáo Phạm Thành C, lời khai của Đặng Thị Thành (em gái ruột C1) thì có đủ cơ sở kết luận: Vào khoản đầu tháng 6/2017 C1 biết C có súng quân dụng nên đã hỏi mượn súng của C, do đó Phạm Thành C cho Đặng Minh C1 mượn 01 khẩu súng Colt 45, C đã bỏ khẩu súng trong túi đèo màu da bò và đưa cho Thành (em gái của C1, không biết trong túi có súng) để cất giữ, sau đó vào ngày 18/6/2017 thì Thành giao lại cái túi đựng súng cho C1.Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Đặng Minh C1 phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về hành vi phạm tội “Cướp tài sản”: Do thiếu nợ không có khả năng chi trả nên Đặng Minh C1 nảy sinh ý định đi cướp tài sản là thuốc lá ngoại nhập của những người vận chuyển từ cửa khẩu Tho Mo huyện Đức Huệ chạy ra, để bán lấy tiền trả nợ. Đặng Minh C1 đã rủ các bị cáo L, Q, C ,Tấn và Tài cùng tham gia. Các bị cáo chuẩn bị P tiện, C phạm tội gồm: 01 lon nước, 01 khẩu súng Colt 45 và thuê 03 xe ô tô đi đến địa bàn huyện Đức Huệ để thực hiện vụ cướp. Q và Tấn được C1 phân C đậu xe tại địa điểm thuận lợi cho việc quan sát xe chở thuốc lá, Tài đi C1 xe với C1 và mang theo lon nước sơn đen để tạt vào kính xe chở thuốc. Khi được L thông báo xe innova biển số 51G -242.58 chở thuốc lá thì C1 biết là xe xủa Trần Quốc Q nên đã chỉ đạo các bị cáo khác cùng C1 dùng nhiều xe ô tô chạy tốc độ cao, quyết liệt đuổi theo xe của Q và đâm dụng với xe của N nhằm để chặn cướp. Bị cáo L đã lái xe cho C bắn 03 phát đạn đều trúng vào xe Ford bán tải của N chở P ngồi trong xe, trong đó có 01 viên đạn trúng vào ngay ghế chỗ P. Nhóm của Q chống trả quyết liệt như: N chạy xe cản C1 và đồng bon lại, còn Q cũng dùng súng bắn lại nên C1 chưa chiếm đoạt được xe thuốc lá của Q.

[2.2] Quá trình điều tra, xét xử các bị cáo C, Q, Tấn, Tài và L khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như nêu trên và thừa nhận chính bị cáo C1 là kẻ chủ mưu, cầm đầu, rủ lê, lôi kéo các bị cáo khác và cũng chính C1 phân C nhiệm vụ cho từng bị cáo. Những lời khai ban đầu của bị cáo C1 thừa nhận việc bị cáo là kẻ tổ chức đi cướp thuốc lá ở Tho Mo và phân C nhiệm vụ cho các bị cáo khác, nhưng sau đó bị cáo thay đổi lời khai cho rằng việc các bị cáo lên cửa khẩu Tho Mo là nhằm theo dõi xe thuốc lá của Q để báo cho C an tình Bình Dương bắt. Xét lời khai này của bị cáo C1 là không có căn cứ vì không phù hợp với lời khai của các bị cáo khác và không phù hợp với diễn biến thực tế của vụ án.

Hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp tài sản”, các bị cáo đã thống nhất cùng bàn bạc đi cướp xe thuốc lá và chuẩn bị xe ô tô, nước sơn, tuân theo sự phân C, chỉ đạo của bị cáo C1 về ngưới canh đường, cảnh giới, tìm xe chở thuốc lá, do đó Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết đinh khung tăng nặng “Có tổ chức” theo điểm a khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ. Hành vi của bị cáo C đã trực tiếp sử dụng súng quân dụng loại Colt 45 bắn nhiều phát đạn vào xe của N, P để nhằm chặn cướp thuốc lá, trong đó có 01 viên đạn xuyên thủng ghế ngay chổ P ngồi, việc P không chết là do có vật cứng chắn lại viên đạn, vì vậy Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo C phạm tội Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 BLHS và tội “Giết người” với các tình tiết dịnh khung tăng nặng “Giết ngưới mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thức hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trong” “Bằng P pháp có khả năng làm chết nhiều người” theo điểm e, l khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2.3] Trong vụ án này các bị cáo sử dụng xe ô tô chạy tốc độ cao, quyết liệt, nguy hiểm, đâm đụng nhau và sử dụng quân dụng bắn nhiều phát để chặn cướp thuốc lá đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Lẽ ra cần phải áp dụng thêm tình tiết đinh khung tăng nặng “Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” theo điểm g khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự. Đồng thời các tài liệu, chứng trong hồ sơ đều thể hiện khi tổ chức đi cướp xe chở thuốc lá thì C1 đem theo khẩu súng Colt 45 đưa cho C và nói “Khi đi cần thiết thì sử dụng” và thực tế C đã sử dụng súng này để bắn vào xe của N khi N truy cản không cho các bị cáo chặn xe chở thuốc của Q, lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm cần phải áp dụng thêm tình tiết định khung tăng năng “Sử dụng vũ khí” theo điểm d khoản 2 Điều 168 bộ luật hình sự đối với Đặng Minh C1. Do phạm vi và tính chất của xét xử phúc thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị về vấn đề này nên Hội đồng xét xử không làm xấu hơn tình trạng của các bị cáo mà chỉ nêu ra để cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.

[2.4] Trong vụ án này, bị cáo Đặng Minh C1 là kẻ cầm đầu, tổ chức việc đi cướp, phân C nhiệm vụ cho từng bị cáo, chuẩn bị vũ khí là súng Colt 45 để đi cướp, quá trình điều tra, xét xử bị cáo thay đổi lời khai, ngoan cố, quanh có chối tội. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 08 năm tù về tội “Cướp tài sản” và 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” là có phần nhẹ, chưa tương xưng với vai trò, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo.

[2.5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo C và Tấn, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng: các bị cáo tham gia với vai trò đồng phạm là người thực hành, người giúp sức tích cực, bị cáo C phạm một lúc nhiều tội, ngày 22/4/208 bị Tòa án tỉnh Đắk Nông kết án về tội “Cố ý gây thương tích” “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”, bị cáo Tấn có 01 tiền án về tội “tồ chức đánh bạc”, chưa được xóa án nay lại tiếp tục phạm tội nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân, vai trò, tính chất hành vi của từng bị cáo và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên xử phạt bị cáo C mức án 12 năm tù về tội “Giết người” 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” và 01 năm tù về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”; Xử phạt bị cáo Tấn mức án 07 năm tù về tội “Cướp tài sản”. Xét mức án trên đối với các bị cáo là phù hợp không nặng, tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không xuất trình thêm được tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[5] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo Đặng Minh C1.

Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phạm Thành C và Đặng Vũ T.

Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 60/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An.

Áp dụng điểm e, l khoản 1, Điều 123, điểm a khoản 2 Điều 168; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50; Điều 38; Điều 15; Điều 57; Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Phạm Thành C 12 (Mười hai) năm tù về tội “Giết người”; 04 (Bốn) năm tù về tội “Cướp tài sản”; 01 (Một) năm tù về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt C1 của 03 tội là 17(Mười bảy) năm tù. Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt với bản án số 17/2019/HS-ST ngày 22/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, buộc bị cáo chấp hành hình phạt C1 của hai bản án là 24 (Hai mươi bốn) năm tù. Thời hạn phạt tù được tính từ ngày 12/6/2018.

Áp dụng khoản 1 Điều 304; điểm a khoản 2 Điều 168; khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38; Điều 15; Điều 57; Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt Đặng Minh C1 08 (Tám) năm tù về tội “Cướp tài sản”; 01 (Một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Đặng Minh C1 chấp hành hình phạt C1 của hai tội là 09 (Chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2017.

Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 168; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38; Điều 15; Điều 57; Điều 17 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Đặng Vũ T 07 (Bảy) năm tù về tội “Cướp tài sản”.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt với bản án số 395/2017/HS-ST ngày 15/9/2017 của Tòa án Thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt C1 của hai bản án là 08 (Tám) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/08/2017, nhưng được khấu trừ thời hạn tạm giam từ ngày 28/12/2016 đến ngày 03/01/2017 theo Bản án 395/2017/HS-ST ngày 15/9/2017 của Tòa án thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.

2. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Các Bị cáo Đặng Minh C1, Phạm Thành C và Đăng Vũ Tấn, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 634/2020/HS-PT ngày 26/10/2020 về tội giết gười, cướp tài sản và tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng

Số hiệu:634/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về