TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 25/05/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 25 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 55/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021, đối với các bị cáo:
1. Võ Thị P, sinh năm 1977 tại tỉnh Vĩnh Long.
Nơi cư trú: Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn N2 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1942; chồng: Bùi Văn V, sinh năm 1970, có 04 con: lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2018.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 05/01/2021 đến ngày 08/01/2021. Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/01/2021 đến nay.
2. Đỗ Ngọc Thiên H, sinh năm 1991 tại tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Ngọc D, sinh năm 1965 và bà Nguyễn Thị Th1, sinh năm 1969; chồng: Chồng: Lê Qúy T4, sinh năm 1987 (đã ly hôn ), có 02 lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2013.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 05/01/2021 đến ngày 08/01/2021. Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/01/2021 đến nay.
3. Võ Thị Hồng N (Tên gọi khác: Hai), sinh năm 1959 tại tỉnh Bến Tre.
Nơi cư trú: Ấp 4, xã P3, huyện T2, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Làm rẫy; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh;
giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn H2 (đã chết ) và bà Lê Thị T5, sinh năm 1939; chồng: Trịnh Văn Th3, sinh năm 1959 ( đã ly hôn ), có 03 con, lớn nhất sinh năm 1980, nhỏ nhất sinh năm 1992.
Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân: Tại bản án số 42/2019/HS-ST ngày 18/6/2019 Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai đã xử phạt 25.000.000 đồng về tội đánh bạc, chấp hành xong vào tháng 11/2019.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 05/01/2021 đến ngày 08/01/2021. Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/01/2021 đến nay.
4. Cao Thị Xuân H1, sinh năm 1984 tại tỉnh Đồng Nai.
Nơi cư trú: Ấp N1, xã P1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh;
giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Cao Đức Th4, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Tuyết M, sinh năm 1960; chồng Trần Hữu Đ, sinh năm 1975 (đã ly hôn), có 04 con, lớn nhất sinh năm 2002 và nhỏ nhất sinh năm 2016.
Tiền sự: không.
Tiền án: Ngày 12/8/2014 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ từ ngày 05/01/2021 đến ngày 08/01/2021. Áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 08/01/2021 đến nay.
(Có mặt các bị cáo)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu, có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Buổi chiều ngày 05/01/2021, Cao Thị Xuân H1 tới nhà Võ Thị P, thuộc Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai để chơi. Khoảng 13 giờ cùng ngày, P nảy sinh ý định đánh bạc trái phép được thua bằng tiền với hình thức chơi bài tứ sắc, P rủ H1 tham gia thì được H1 đồng ý. P gọi điện thoại rủ Võ Thị Hồng N và Đỗ Ngọc Thiên H tới chơi cùng. Trước khi chơi, P chuẩn bị 01 bộ bài tứ sắc, 01 chiếc chăn vải để đánh bạc. Lúc tham gia đánh bạc, Cao Thị Xuân H1, Võ Thị P, Võ Thị Hồng N, Đỗ Ngọc Thiên H quy ước mỗi người bỏ ra 300.000 đồng để đánh bạc gọi là “chến”, nếu ai thua hết số tiền đó gọi là “đứt chến” thì tất cả sẽ đặt tiền ra chơi lại từ đầu. Cách thức ăn thua khi chơi như sau, dùng bộ bài gồm 112 lá, chia mỗi người 20 lá, người chia bài được 21 lá, người chia bài đánh 01 lá bài bất kỳ ra, người ngồi tiếp theo bên tay phải sẽ chọn lá bài người trước bỏ ra hoặc rút từ trong bộ bài, sau đó lại đánh tiếp 01 lá bài cho người kế tiếp, cứ tiếp tục như vậy cho đến khi có người thắng. Người thắng là người đầu tiên không còn lá bài lẻ nào và các lá bài trên tay đều tạo thành bài chẵn như “đôi”, “khạp”, “liền”, “quan”. Tùy vào ván bài mà người thắng sẽ ăn của những người còn lại từ 20.000 đồng đến 70.000 đồng mỗi ván. Đến 16 giờ 00 phút cùng ngày, Cơ quan Công an xã Thanh sơn, huyện Tân Phú phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu trên chiếu bạc số tiền 2.400.000 đồng, thu trên người Võ Thị P 2.400.000 đồng, Đỗ Ngọc Thiên H 1.500.000 đồng, đều là tiền dùng vào việc đánh bạc.
Qua điều tra người tham gia đánh bạc khai nhận về số tiền dùng vào việc đánh bạc như sau: Võ Thị P 2.200.000 đồng, Đỗ Ngọc Thiên H 2.000.000 đồng, Võ Thị Hồng N 1.200.000 đồng, Cao Thị Xuân H1 850.000 đồng.
Tang vật thu giữ:
- Số tiền 6.300.000 đồng, trong đó có 2.400.000 đồng thu trên chiếu bạc, 3.900.000 đồng thu trên người các bị can Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H; 01 tấm vải màu nâu, 01 bộ bài tứ sắc hiện đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú.
- Trong lúc tiến hành bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, Cơ quan Công an xã T1, huyện T2 đã tạm giữ của Võ Thị P: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo; Đỗ Ngọc Thiên H 01 xe mô tô biển số 60B3-059.64; Võ Thị Hồng N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, 3.800.000 đồng trong túi áo khoác; Cao Thị Xuân H1 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 01 xe mô tô biển số 60B3-725.94; Khưu Thị Th6 8.495.000 đồng.
Bản cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 12/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai truy tố các bị cáo Võ Thị P, Võ Thị Hồng N, Đỗ Ngọc Thiên H, Cao Thị Xuân H1 về tội “Đánh bạc” qui định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 321, Điều 58 Bộ luật hình sự và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo; áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H; áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Cao Thị Xuân H1; đề xuất mức án đối với các bị cáo, cụ thể:
- Cao Thị Xuân H1 từ 06 (sáu) đến 08 (tám) tháng tù.
- Võ Thị Hồng N từ 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) đến 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).
- Võ Thị P từ 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng) đến 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
- Đỗ Ngọc Thiên H từ 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng) đến 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng).
Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 6.300.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 tấm vải màu nâu, 01 bộ bài tứ sắc.
- Trong lúc tiến hành bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang Cơ quan Công an xã T1, huyện T2 đã tạm giữ của Võ Thị P: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo; Đỗ Ngọc Thiên H 01 xe mô tô biển số 60B3-059.64; Võ Thị Hồng N 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, 3.800.000 đồng trong túi áo khoác; Cao Thị Xuân H1 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 01 xe mô tô biển số 60B3-725.94; Khưu Thị Th6 8.495.000 đồng. Quá trình điều tra đã làm rõ được số tiền, đồ vật, tài liệu nêu trên không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên không xem xét.
- Về án phí đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo pháp luật.
Tại phiên tòa: Các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như cáo trạng truy tố là đúng, các bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, tạo điều kiện để các bị cáo cải tạo tại địa phương mà trở thành người công dân có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Tại phiên tòa các bị cáo không đưa ra đồ vật, tài liệu, chứng cứ nào khác. Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Vụ án không thuộc trường hợp tạm đình chỉ hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai nhận tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 05/01/2021 và các chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án nên hôi đông xet xư đu cơ sơ xac đinh : Khoảng 13 giờ ngày 05/01/2021 tại nhà Võ Thị P, thuộc Ấp T, xã T1, huyện T2, tỉnh Đồng Nai Võ Thị P, Võ Thị Hồng N, Đỗ Ngọc Thiên H và Cao Thị Xuân H1 cùng nhau đánh bạc trái phép được thua bằng tiền, hình thức chơi bài tứ sắc thì bị Công an xã T1, huyện T2 phát hiện bắt quả tang và thu giữ 6.300.000 đồng cùng các tang vật khác vào lúc 16 giờ cùng ngày. Số tiền này thu trên người Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H đã làm rõ được đây là số tiền đã và sẽ được dùng vào việc đánh bạc Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự. Do đó, Cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 12/4/2021của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Phú, truy tố các bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai cho các bị cáo.
[3] Hành vi của các bị cáo thực hiện không chỉ trực tiếp xâm phạm đến trật tự công cộng, mà còn gây bất bình trong cộng đồng dân cư, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, để giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội cần thiết phải xét xử và áp dụng cho các bị cáo mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo đã thực hiện, tuy nhiên khi quyết định hình phạt cần xem xét về nhân thân, vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo.
[4] Về tính chất đồng phạm: Các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm giản đơn, các bị cáo chỉ cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, khi quyết định hình phạt, cần áp dụng Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo là có căn cứ.
Xét về nhân thân của các bị cáo thì thấy rằng bị cáo Cao Thị Xuân H1 là người có 01 tiền án (Ngày 12/8/2014 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 ( bảy ) năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy) chưa được xóa án tích. Do đó hành vi phạm tội lần này của bị cáo Cao Thị Xuân H1 cần phải xử lý nghiêm và hình phạt của bị cáo Xuân H1 là cao hơn các bị cáo khác; bị cáo Võ Thị Hồng N là người có nhân thân xấu (Tại bản án số 42/2019/HS-ST ngày 18/6/2019 Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai đã xử phạt 25.000.000 đồng về tội đánh bạc, chấp hành xong vào tháng 11/2019) nhưng lại tiếp tục tiếp tục phạm tội đánh bac. Do đó, hình phạt của bị cáo N chỉ thấp hơn bị cáo Xuân H1 và cao hơn bị cáo P, bị cáo Thiên H.
[5]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Cao Thị Xuân H1 có 01 tiền án (Ngày 12/8/2014 bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 ( bảy ) năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, các bị cáo là phụ nữ, lao động chính trong gia đình. Vì vậy, các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Vì vậy bị cáo Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 6.300.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 tấm vải màu nâu, 01 bộ bài tứ sắc vì đây là công cụ phạm tội và không có giá trị sử dụng.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Mobell, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo của Võ Thị P; 01 xe mô tô biển số 60B3-059.64 của Đỗ Ngọc Thiên H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, 3.800.000 đồng trong túi áo khoác của Võ Thị Hồng N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Pro Max, 01 xe mô tô biển số 60B3-725.94 của Cao Thị Xuân H1;
8.495.000 đồng của Khưu Thị Th6. Quá trình điều tra đã làm rõ được số tiền, đồ vật, tài liệu nêu trên không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên không xem xét.
[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì các bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.
Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc đánh giá tính chất mức độ, hành vi phạm tội và hình phạt của các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58 Bộ luật Hình sự; áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H; áp dụng thêm điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Cao Thị Xuân H1;
Tuyên bố: Các bị cáo Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H, Võ Thị Hồng N, Cao Thị Xuân H1 phạm tội “Đánh bạc”.
Xử phạt:
- Bị cáo Cao Thị Xuân H1 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình. Được trừ thời gian bị tạm giữ từ ngày 05/01/2021 đến ngày 08/01/2021.
- Bị cáo Võ Thị Hồng N 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).
- Bị cáo Võ Thị P 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
- Bị cáo Đỗ Ngọc Thiên H 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điêu 47 của Bộ luật hình sự , áp dụng các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 6.300.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 tấm vải màu nâu, 01 bộ bài tứ sắc.
Số tiền và vật chứng đang do Chi cục thi hành án dân sự huyện Tân Phú quản lý (Số tiền theo biên lai thu số 002018 ngày 22/4/2021, số vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Phú và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú).
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Các bị cáo Võ Thị P, Đỗ Ngọc Thiên H, Võ Thị Hồng N, Cao Thị Xuân H1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án.
Bản án 63/2021/HS-ST ngày 25/05/2021 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 63/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về