Bản án 63/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 63/2020/HSST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2020/TLST – HS ngày 14 tháng 9 năm 2020, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2020/QĐST–HS ngày 17 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn B, tên gọi khác: Không Sinh năm 1990 tại huyện Qùy Hợp, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Bản B, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An:

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hà Văn N, con bà: Nguyễn Thị K; Vợ: Nguyễn Thị H, con: 01 người(đã chết); Tiền sự: Không; Tiền án: 01 tiền án. Bản án số 31/2014/ HSST, ngày 02/6/2014 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An xử phạt Hà Văn B 6.000.000 (sáu triệu) đồng về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An từ ngày 28/5/2020 đến nay.

( Có mặt).

Người làm chứng:

1. Anh Quang Văn Đ, sinh năm 1998.

Nơi cư trú: Xóm R, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An. ( Vắng mặt).

2. Anh Trương Văn V, sinh năm 1998.

Nơi cư trú: Xóm T, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

( Vắng mặt).

3. Anh Vi Văn H, sinh năm 1993.

Nơi cư trú: Xóm Q, xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An.

( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 16 giờ ngày 27/5/2020, tại khu vực rú mồ bản P, xã Ch, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Công an huyện Quỳ Hợp phát hiện Vi Văn H đang sử dụng trái phép chất ma túy, thu giữ trên tay 01 bơm kim tiêm bên trong có chứa một ít dung dịch màu trắng đục (nghi là ma túy) và 01 mảnh giấy.

Tại Cơ quan Điều tra Vi Văn H, Quang Văn Đ và Trương Văn V khai nhận:

Vào sáng ngày 25/5/2020, Quang Văn Đ và Trương Văn V góp được 200.000 đồng (mỗi người 100.000 đồng), đến mua 02 gói ma túy với Hà Văn B để sử dụng. Trên đường về Quang Văn Đ đưa cho Trương Văn V 01 gói ma túy, sau đó cả hai người sử dụng hết. Khoảng 15 giờ ngày 27/5/2020, Quang Văn Đ và Vi Văn H góp được 200.000 đồng (mỗi người 100.000 đồng), đến mua 02 gói ma túy với Hà Văn B để sử dụng. Trên đường về Quang Văn Đ đưa cho Vi Văn H 01 gói ma túy, khi Vi Văn H đang sử dụng thì bị phát hiện và thu giữ 01 bơm kim tiêm bên trong có chứa một ít dung dịch màu trắng đục và 01 mảnh giấy.

Tại Cơ quan Điều tra Hà Văn B khai nhận: Ngày 24/5/2020, tại khối B, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Nghệ An Hà Văn B mua một gói ma túy của một người đàn ông không quen biết với số tiền 500.000 đồng. Sau đó Hà Văn B đem về nhà chia thành nhiều gói nhỏ để tiện sử dụng và bán kiếm lời. Vào các ngày 25 và 27/5/2020, Hà Văn B đã 02 lần bán 04 gói ma túy với số tiền 400.000 đồng cho Quang Văn Đ, Trương Văn V và Vi Văn H. Ngày 28/5/2020 Công an huyện Quỳ Hợp khám xét nhà thì Hà Văn B đã giao nộp 01 hộp nhựa bên trong có 05 gói ma túy số còn lại.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập ngày 29/5/2020, của Cơ quan CSĐT - Công an huyÖn Quú Hîp xác định: 05 gói nhỏ thu giữ của Hà Văn B, có khối lượng là 0,15 gam.

Kết luận giám định số: 724/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 01/6/2020, của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Dung dịch màu trắng đục có trong bơm kim tiêm (Ký hiệu M1) thu giữ của Vi Văn H gửi tới giám định là dung dịch ma túy (dung dịch Hêrôin). Mẫu chất bột màu trắng (Ký hiệu M2) thu giữ của Hà Văn B gửi tới giám định là ma túy (Hêrôin) có khối lượng là 0,15 gam.

Bản cáo trạng số 65/VKS – HS ngày 14/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp truy tố bị cáo Hà Văn B về tội“Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Hà Văn B nhất trí với cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp truy tố bị cáo về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật như nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h (tái phạm) khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hà Văn B từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù.

Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Quang Văn Đ, Trương Văn V và Vi Văn H chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, Công an huyện Quỳ Hợp đã xử lý hành chính Trương Văn V và Vi Văn H nên đề nghị không phải xem xét. Còn Quang Văn Đ hiện đang đi cai nghiện ma túy tại Cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc số 1 tỉnh Nghệ An.

Đối với người đàn ông bán ma túy cho Hà Văn B, do không rõ tên tuổi và địa chỉ cụ thể, nên không có căn cứ để điều tra xử lý.

Vật chứng của vụ án là: 0,1 gam Hêrôin cùng toàn bộ vỏ bao và giấy niêm phong, 01 hộp nhựa, 06 mảnh giấy, 01 bơm kim tiêm đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samung là tài sản của Hà Văn B đề nghị trả lại cho chủ sở hữu.

Bị cáo Hà Văn B nói lời nói sau cùng: Qua thời gian bị tạm giam bị cáo biết việc làm của mình là sai trái mong Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa bị cáo Hà Văn B đều thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản cáo trạng. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, những người làm chứng trong vụ án và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong quá trình điều tra, gồm: Biên bản sự việc ngày 27/5/2020; Biên bản giữ người trong trường hợp khẩu cấp ngày 28/05/2020; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại lập ngày 29/5/2020; biên bản mở niêm phong kiểm tra lại vật chứng và niêm phong lại lập ngày 29/5/2020; KÕt luËn gi¸m ®Þnh sè: 724/KL-PC09 (Đ2-MT), ngày 01/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An. Do đó có căn cứ xác định: Trong các ngày 25 và ngày 27/5/2020, Hà Văn B đã có 02 lần bán ma túy cho người nghiện, thu lợi 400.000 đồng, cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào ngày 25/5/2020, Hà Văn B đã bán 02 gói Hêrôin cho Quang Văn Đ và Trương Văn V với số tiền 200.000 đồng.

Lần thứ hai: Vào ngày 27/5/2020, Hà Văn B đã bán 02 gói Hêrôin cho Quang Văn Đ và Vi Văn Hiệp với số tiền 200.000 đồng.

Do đó, có đủ căn cứ xác định các hành vi trên của Hà Văn B đã cấu thành tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 251 Bộ luật hình sự. Bị cáo Hà Văn B đã hai lần bán ma túy nên phải chịu tình tiết định khung là “ Phạm tội 02 lần trở lên”. Do đó, Hà Văn B bị xét xử và phải chịu hình phạt theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự như truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo Hà Văn B đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý nhà nước về chất ma tuý. Vụ án xảy ra còn gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội. Cần lên cho các bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra nhằm cải tạo các bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội và răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung. Đặc biệt, Hà Văn B chưa chấp hành xong hình phạt 6.000.000 (Sáu triệu) đồng về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tại bản án số 31/2014/ HSST, ngày 02/6/2014 của Tòa án nhân dân huyện Quỳ Hợp mà lại thực hiện hành vi phạm tội nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “ Tái phạm” đối với bị cáo. Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần về hình phạt cho bị cáo vì tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có bố đẻ được Nhà nước tặng thưởng nhiều Huân chương. Do đó, cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định “ Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng ....”. Do đó, Hà Văn B có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy hiện nay bị cáo đang bị tạm giam, trước khi phạm tội là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. [5] Vật chứng vụ án: Số vật chứng thu giữ của Hà Văn B gồm: 0,15 gam ma túy, đã lấy 0,05 gam đưa đi giám định, còn lại 0,1 gam Hêrôin, cùng 05 mảnh giấy gói, 01 hộp nhựa bỏ trong phong bì thư niêm phong; Thu giữ của Vi Văn H 01 bơm kim tiêm, 01 mảnh giấy gói bỏ trong phong bì thư niêm phong cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với tài sản là 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu vàng, nhãn hiệu Samung, màn hình bị vỡ là tài sản của các bị cáo cần trả lại cho chủ sở hữu.

6] Về án phí: Bị cáo Hà Văn B chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Văn B phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy ”.

Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51: điểm h( tái phạm) Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hà Văn B 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 28 tháng 5 năm 2020.

Vật chứng vụ án: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 400.000 (Bốn trăm nghìn) đồng tại Hà Văn Bảo.

Tịch thu tiêu hủy gồm: 0,1 gam Hêrôin, 01 hộp nhựa, 06 mảnh giấy gói, 01 bơm kim tiêm và vỏ bao niêm phong.

Trả lại cho bị cáo Hà Văn B 01 chiếc điện thoại di động vỏ màu vàng, nhãn hiệu Samung, màn hình bị vỡ.

Đặc điểm chi tiết vật chứng trên được phản ánh tại biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 14/9/2020 giữa Công an huyện Quỳ Hợp và Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Quỳ Hợp.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật TT hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Bị cáo Hà Văn B chịu án phí hình sự sơ thẩm bị cáo 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, vắng mặt những người làm chứng. Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 28/ 9 /2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HSST ngày 28/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về