Bản án 63/2020/HSST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 63/2020/HSST NGÀY 26/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 11 năm 2020. Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Xét xử sở thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 60/2020/HSST, ngày 05 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2020/QĐXXST-HS, ngày 12/11/2020, đối với:

1. Bị cáo: Trần Thị G, sinh năm 1979. Nơi cư trú: Xóm Đức Thịnh, xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 3/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; con ông: Trần Đình A ( chết ) và bà Nguyễn Thị T; chồng: Chưa có; con: Có 02 con, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

2. Bị hại: Chị; Đậu Thị T, sinh năm 1976. Địa chỉ: Xóm Đức Thịnh, xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm như sau: Gia đình chị Đậu Thị T, sinh năm 1976 trú tại xóm Đức Thịnh, xã TĐ, huyện Thanh Chương hàng ngày thường lùa dê vào vườn cũ của gia đình (ở cạnh nhà Trần Thị G) để chăn thả. Do biết có 02 con dê của chị Đậu Thị T thường hay sang vườn nhà mình ăn cỏ nên Trần Thị G đã nảy sinh ý định bán 02 con dê của chị Đậu Thị T để lấy tiền trả nợ. Ngày 26/7/2020 và ngày 27/7/2020 Trần Thị G có gọi điện thoại cho anh Nguyễn Thế Đ, sinh năm 1989 trú tại xóm Mỹ Lâm, xã Thanh Mỹ, huyện Thanh Chương (người chuyên đi thu mua dê) và nói với anh Nguyễn Thế Đ đến nhà mình mua dê nhưng anh Nguyễn Thế Đ bận không lên được. Đến ngày 28/7/2020, sau khi gọi điện thoại cho Trần Thị G, anh Nguyễn Thế Đ đến nhà gặp Trần Thị G và hỏi “chị bán 2 con mô”. Lúc này Trần Thị G chỉ vào đàn dê của gia đình chị Đậu Thị T đang ở trong vườn và nói “một là bắt 01 con dê mẹ và 1 con dê choai, hai là bắt 01 con dê mẹ có tràng cổ theo 3 con dê con” thì anh Nguyễn Thế Đ trả lời “em bắt con dê mẹ và con dê choai” và hỏi giá bao nhiêu, Trần Thị G nói cân dê lên nhưng anh Nguyễn Thế Đ nói chỉ mua quạ thôi. Nghe vậy Trần Thị G nói với anh Nguyễn Thế Đ là 02 con này giá 7.000.000 đồng nhưng anh Nguyễn Thế Đoàn nói chỉ mua với giá 5.000.000 đồng. Trần Thị G đồng ý bán, tuy nhiên do trước đó đang còn nợ anh Nguyễn Thế Đ 7.300.000 đồng nên anh Nguyễn Thế Đ đã trừ số tiền mua dê 5.000.000 đồng vào số tiền nợ nói trên. Sau đó anh Nguyễn Thế Đ bắt 02 con dê bỏ vào lồng và chở về nhà. Ngày 29/7/2020, anh Nguyễn Thế Đ đã mang con dê mẹ sang bán cho anh Cường trú tại huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh với giá 4.200.000 đồng còn con dê choai vẫn nhốt ở chuồng nhà anh Nguyễn Thế Đ.

Sau khi phát hiện 02 con dê của mình bị mất, chị Đậu Thị T đã có đơn trình báo với Công an xã TĐ. Ngày 30/7/2020, Công an xã TĐ đã triệu tập Trần Thị G lên làm việc, tại đây Trần Thị G đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Đối với anh Nguyễn Thế Đ, sau khi biết 02 con dê mà Trần Thị G đã bán cho mình là dê của chị Đậu Thị T nên anh đã sang Hà Tĩnh chuộc con dê mẹ và tự nguyện giao nộp 02 con dê nói trên cho Cơ quan Công an.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 53/KL-ĐG ngày 05/8/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Thanh Chương kết luận: Giá trị của 02 con dê cái có tổng trọng lượng 55 kg, có tổng trị giá là: 5.500.000 đồng.

Người bị hại trình bày: Sáng ngày 28/7/2020 con trai của chị lùa bầy Dê của gia đình vào khu vực vườn cũ gia đình sát nhà Trần Thị G thả, đến khoảng 19 giờ khi phát hiện bị mất 02 con dê, chị đã làm Đơn trình báo Công an xã TĐ; 02 con dê bị mất có đặc điểm 01 con dê cái màu lông đen khoảng 35 kg, con dê thứ 2 là dê cái màu nâu khoảng 20 kg; nay cơ quan Công an đã điều tra đã xác định do Trần Thị G trộm cắp và thu hồi lại cho chị 02 con dê bị mất, nên chị không có yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Tại bản Cáo trạng số 61 ngày 04/11/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đã truy tố Trần Thị G, về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, xử phạt bị cáo Trần Thị G, từ 06 đến 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi; bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Chương, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thị G, đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với vật chứng đã thu được; phù hợp với kết luận định giá tài sản số 53/KL-ĐG ngày 05/8/2020.

Xét về chứng cứ đã có đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng sơ hở của gia đình chị Đậu Thị T, sinh năm 1976 trú tại xóm Đức Thịnh, xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, thường xuyên thả dê ăn trong vườn nhà mình không có người trông coi nên vào ngày 28/7/2020 Trần Thị G đã lén lút bán trộm 02 con dê của gia đình chị Đậu Thị T cho anh Nguyễn Thế Đoàn, sinh năm 1989 trú tại xóm Mỹ Lâm, xã Thanh Mỹ, huyện Thanh Chương với giá: 5.000.000 đồng( năm triệu đồng).

Như vậy đã có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Trần Thị G phạm tội "Trộm cắp tài sản ”, như Viện kiểm sát truy tố là đúng.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, ảnh hưởng đến an ninh trật xã hôị; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Cho nên cần xét xử nghiêm, mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cho nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo; xét thấy bị cáo lần đầu phạm tội, lại có nơi cư trú rõ ràng, là mẹ đơn thân; cho nên không cần thiết phải cách ly ra ngoài xã hội, mà cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ để giáo dục bị cáo, để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Xét thấy người bị hại là chị Đậu Thị T, cũng như anh Nguyễn Thế Đ không có yêu cầu gì, nên Tòa án không xem xét.

[5] Về vật chứng: Trong quá trình điều tra có thu giữ 01 con dê giống cái, có 02 sừng bằng nhau, mỗi sừng dài 08 cm, có đuôi sau dài 12 cm, lông màu vàng đen có trọng lượng 35 kg; 01 con dê giống cái, có 02 sừng bằng nhau, mỗi sừng dài 05 cm, có đuôi dài 10cm, lông màu nâu đen có trọng lượng 20kg. Cơ quan điều tra đã trả lại 02 con dê này cho chủ sở hữu là chị Đậu Thị T là đúng quy định của pháp luật.

Đối với anh Nguyễn Thế Đoàn là người mua dê của Trần Thị G do phạm tội mà có, tuy nhiên do anh Nguyễn Thế Đoàn không biết 02 con dê mà Giang bán là của chị Đậu Thị T cho nên anh Nguyễn Thế Đoàn không có lỗi trong hành vi của mình; sau khi biết sự việc anh đã đem trả lại và cũng không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo; Trần Thị G, phạm tội “ Trộm cắp tài sản ”.

2. Xử phạt bị cáo: Trần Thị G, 06 ( sáu ) tháng tù. Cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng. Thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Trần Thị G cho UBND xã TĐ, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trờ lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

3. Về án phí: Bị cáo Trần Thị G phải chịu: 200.000 đồng ( Hai trăm ngàn đồng ) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HSST ngày 26/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về