Bản án 63/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ H, TỈNH T

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 15/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 63/2020/TLST-HS ngày 18 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65A/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh U, sinh năm 1975, tại T; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Số nhà 36, đường số 7 đường C, Tổ 14, khu phố H, phường HT, thị xã H, tỉnh T; nghề nghiệp: không có; trình độ học vấn 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn B (chết) và bà Trần Thị S (chết); vợ con: Chưa có; tiền án: không, tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giữ ngày 25-6-2020, tạm giam ngày 01-7-2020 cho đến nay bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh U là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 24/6/2020 Út đón xe khách Đ đến khu vực Bến xe A thuộc huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh gặp một người đàn ông (không rõ họ tên, địa chỉ) mua 01 bịch ma túy với giá 5.000.000 đồng đem về cất giấu trong bóp da để sử dụng. Đến khoảng 14 giờ 20 phút ngày 25/6/2020 khi đang ở trong phòng ngủ tại nhà số 36, khu phố H, phường HT, thị xã H, tỉnh T thì bị lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh T phối hợp với Công an thị xã H đến kiểm tra, phát hiện thu giữ trong bóp da của U 01 (một) bịch nylon loại bóp dính miệng bên trong chứa tinh thể màu trắng được niêm phong, kí hiệu M.

Tại kết luận giám định số 952/KL-KTHS ngày 29/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T. Kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch nylon (ký hiệu M) gửi đến giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 14,7288 gam.

Qua xác minh, Trần Thanh U không có tài sản nên không kê biên.

Đi với người đàn ông bán ma túy cho Út hiện chưa xác định được, khi nào làm rõ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKSHT ngày 17-8-2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T đã truy tố bị cáo Trần Thanh U về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

- Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố trong phần tranh luận: Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh và điều luật đối với bị cáo Trần Thanh U đề nghị áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Thanh U mức án từ 07 năm đến 08 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được ra tù làm người công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, tỉnh T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ 20 phút ngày 25-6-2020, lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh T phối hợp với Công an thị xã H tiến hành kiểm tra bắt quả tang và thu giữ trong bóp da của Trần Thanh U 01 (một) bịch nylon loại bóp dính miệng bên trong là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 14,7288 gam. Hành vi của bị cáo đủ các yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự trị an, làm gia tăng tệ nạn và các tội phạm về ma túy, gây ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của con người, hủy hoại sức khỏe, giảm khả năng lao động, tăng nguy cơ lây nhiễm các căn bệnh HIV- AIDS và là một trong những nguyên nhân gây ra tội phạm khác; nên cần phải có hình phạt tương xứng đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, về tình tiết giảm nhẹ trách nhiêm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có tài sản nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đi với 01 gói niêm phong ghi vụ số 925/KL-KTHS có chữ ký dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T là chất ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy, 01 bình nhựa, trên nắp có gắn ống thủy tinh có một đầu hình tròn và một ống hút nhựa, 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng, 03 đoạn ống thủy tinh đã qua sử dụng là dụng cụ bị cáo sử dụng ma túy nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen, số Imeil 1: 355085100905597; Imeil 2: 355086100905595 (số Imeil trên thân máy 357557/06/333648/1), đã qua sử dụng;

01 điện thoại di động hiệu ViVo màu trắng hồng, số Imeil 1: 866580036711913, Imeil 2: 866580036711905, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, t

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh U phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma úy”.

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Thanh U 07 (Bảy) năm tù, thời hạn thi hành hình phạt tù được tính từ ngày 25-6-2020.

2. Xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tch thu tiêu hủy 01 gói niêm phong ghi vụ số 925/KL-KTHS có chữ ký dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T; 01 bình nhựa, trên nắp có gắn ống thủy tinh có một đầu hình tròn và một ống hút nhựa, đã qua sử dụng; 01 cây kéo bằng kim loại màu trắng, đã qua sử dụng; 03 đoạn ống thủy tinh, đã qua sử dụng.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung màu xanh đen, số Imeil 1: 355085100905597; Imeil 2: 355086100905595 (số Imeil trên thân máy 357557/06/333648/1), đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu ViVo màu trắng hồng, số Imeil 1: 866580036711913, Imeil 2: 866580036711905, đã qua sử dụng.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Thanh U phải chịu 200.000 đồng.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh T trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

181
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 15/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Châu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về