TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI - TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 63/2020/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 315/2020/TLST-HNGĐ, ngày 08 tháng 10 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 79/2020/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 11 năm 2020 và Thông báo mở lại phiên tòa số 54/2020/TB - XX ngày 11 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1982.Có mặt.
Bị đơn: Anh Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1975. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Tổ 05 (tổ 06 cũ), phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 08 tháng 10 năm 2020, bản tự khai và trong quá giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích P trình bày:
Chị P và anh Nguyễn Hồng Q đăng ký kết hôn ngày 04/12/2000tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T (nay là phường H, thành phố Y) tỉnh Yên Bái trên cơ sở tự nguyện. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân theo chị P trình bày, do bất đồng quan điểm sống, tính cách không phù hợp, anh Q không tu chí làm ăn, nợ nần nhiều người...Mâu thuẫn đã được vợ chồng và hai bên gia đình hoà giải nhiều lần nhưng không thành, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 10/2020 không còn quan tâm đến nhau. Nay chị P xác định tình cảm vợ chồng đã hết, chị đề nghị Toà án giải quyết cho được ly hôn với anh Nguyễn Hồng Q.
* Về nuôi con: Chị P và anh Q có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Cẩm N, sinh ngày 13/02/2002 và cháu Nguyễn Nhật Q1, sinh ngày 08/5/2010, nếu Tòa án giải quyết cho chị và anh Q ly hôn, chị P có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Nguyễn Nhật Q1 và yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con số tiền 500.000 đồng/1 tháng. Đối với cháu N đã thành niên, chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Về chia tài sản, nợ chung: Chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, anh Nguyễn Hồng Q vắng mặt. Từ khi thụ lý vụ án cho đến ngày xét xử sơ thẩm, mặc dù Tòa án đã triệu tập, tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải và các văn bản tố tụng khác cho anh Q, nhưng anh Q vẫn cố tình lẩn tránh không đến Tòa án làm việc, cũng không gửi cho Tòa án văn bản nêu ý kiến của mình về việc giải quyết vụ án, nên Tòa án không có bản tự khai của anh Q để lưu hồ sơ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Bích P có đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn, giải quyết quyền nuôi con với anh Nguyễn Hồng Q, căn cứ khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Anh Nguyễn Hồng Q có hộ khẩu thường trú tại tổ 06, phường H, thành phố Y, tỉnh Yên Bái, căn cứ khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái.
Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Hồng Q vắng mặt.Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 Bộ luật TTDS 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]Về quan hệ hôn nhân:Chị Nguyễn Thị Bích P và anh Nguyễn Hồng Q tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 04/12/2000tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T (nay là Ủy ban nhân dân phường H, thành phố Y) tỉnh Yên Bái là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn,vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân theo chị P trình bày do bất đồng quan điểm sống, tính cách không phù hợp, anh Q không tu chí làm ăn, nợ nần nhiều người...mẫu thuẫn đã được hai vợ chồng và hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Quá trình giải quyết vụ án,Tòa án đã triệu tập các bên đương sự đến hòa giải, nhưng anh Q không đến, thể hiện anh Q không có thiện chí hòa giải. Từ đó, có căn cứ cho thấy mâu thuẫn vợ chồng của chị P, anh Q đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị P là có căn cứ, nên được HĐXX chấp nhận.
[3] Về con chung: Xét nguyện vọng của chị P về việc nuôi con, HĐXX thấy: Cháu Nguyễn Nhật Q1 tuổi còn nhỏ, rất cần sự quan tâm, chăm sóc, giáo dục trực tiếp từ người mẹ. Mặt khác, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập anh Q đến hòa giải về việc nuôi con, nhưng anh Q không đến, cũng không giao nộp cho Tòa án văn bản nêu ý kiến của mình về việc nuôi con. Do đó cần giao cháu Q1 cho chị Nguyễn Thị Bích P nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện, bản tự khai chị P có yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con số tiền là 500.000 đồng/1 tháng. Tuy nhiên, tại phiên tòa, chị P rút yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con, xét thấy việc rút yêu cầu của chị P là tự nguyện, nên được HĐXX chấp nhận.
[5] Về chia tài sản, nợ chung: Chị P không yêu cầu, nên HĐXX không xem xét, giải quyết.
[6Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bích P phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.
[7] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228; Khoản 4 Điều 147; Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015:
Căn cứ Khoản 1 Điều 56; Các Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình 2014:
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Bích P được ly hôn với anh Nguyễn Hồng Q.
2.Về nuôi con: Giao cháu Nguyễn Nhật Q1, sinh ngày 08/5/2010 cho chị Nguyễn Thị Bích P trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Hồng Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bích P phải chịu 300.000 đồng tiền án phí sơ thẩm về việc ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị đã nộp theo biên lai số AA/2017/6573ngày 08/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Yên Bái. Xác nhận chị P đã nộp đủ tiền án phí.
Chị Nguyễn Thị Bích P được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Nguyễn Hồng Q được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 63/2020/HNGĐ-ST ngày 28/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 63/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về