Bản án 63/2020/HNGĐ-ST ngày 04/08/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 63/2020/HNGĐ-ST NGÀY 04/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 04 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 215/2020/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2020 về tranh chấp: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 176/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 10 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 126/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Ngô Thị Thu H (Đ), sinh ngày 06/7/1995.

ĐKHKTT: Số 789/1, ấp H, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

2. Bị đơn: ông Nguyễn Quốc T, sinh ngày 09/10/1990.

Địa chỉ:: Số 789/1, ấp H, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là bà Ngô Thị Thu H trình bày:

Bà Ngô Thị Thu H và ông Nguyễn Quốc T chung sống với nhau được cha, mẹ hai bên tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán vào năm 2012 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đại Hải, huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Số 102/14, Quyển số 01/2014, ngày 11/6/2014. Quá trình chung sống ông, bà có 02 người con chung tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 01/7/2012 và Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 04/12/2013 hiện đang sống với bà H. Do vợ chồng không cùng quan điểm sống nên cuộc sống hôn nhân không thể tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông, bà đã ly thân nhau từ đầu năm 2018 đến nay. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Nay bà H yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng giải quyết:

- Về hôn nhân: Yêu cầu xin ly hôn với ông Nguyễn Quốc T, sinh ngày 09/10/1990.

- Về con chung: Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi hai con chung là cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 01/7/2012 và Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 04/12/2013 hiện đang sống với bà H. Bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

 Đối với bị đơn ông Nguyễn Quốc T: Trong quá trình giải quyết vụ án ông không có ý kiến gì và cũng không yêu cầu phản tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phát biểu:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử và tư cách của người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Theo các tài liệu thể hiện trong hồ sơ và tại phiên tòa sơ thẩm. Đại diện Viện kiểm sát nhận thấy mối quan hệ vợ chồng giữa bà H và ông T đã mâu thuẫn trầm trọng. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, cho bà H được ly hôn với ông T.

Về con chung: Do con chung là cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 01/7/2012 và Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 04/12/2013 sống cùng với bà H từ khi vợ chồng ly thân vào năm 2013 đến nay, ông T không có yêu cầu nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà H, giao con chung cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng của cháu K và ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội.

Về cấp dưỡng nuôi con: Tại phiên tòa, do bà H không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung bà H tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

Về án phí: đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Tại phiên tòa bị đơn ông Nguyễn Quốc T vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Xét thấy trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án cho ông T nhưng ông T không có ý kiến gì, trong đó có Thông báo số 501/2020/TB-TA, ngày 30/6/2020 về kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, và công khai chứng cứ, đã hết thời hạn ấn định trong thông báo nhưng ông T không có ý kiến gì nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo qui định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà H và ông T có đăng ký kết hôn vào ngày 11/6/2014, do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Bà H và ông T đã ly thân từ năm 2018 đến nay. Theo biên bản xác minh của Tòa án ngày 08/6/2020: thì nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp là do trước đây bà H và ông T đi nuôi vịt chạy đồng ở Cần Thơ, năm 2012 vợ chồng phát sinh mâu thuẩn nên đã ly thân nhau từ năm 2018 đến nay. Ông T biết việc bà H khởi kiện và cũng đồng ý ly hôn nhưng ông không đến Tòa án vì ông bận công việc riêng, ông T yêu cầu Tòa án xét xử vắng mặt ông, ông không khiếu nại về sau. Ông T không có ý kiến gì về con chung. Xét thấy, mối quan hệ vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn đã thật sự tan vỡ, không còn khả năng hàn gắn, đoàn tụ. Bỡi lẽ, theo lời trình bày của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở để xác định cuộc sống vợ chồng giữa nguyên đơn và bị đơn không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên nguyên đơn yêu cầu ly hôn bị đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung:

Theo lời khai của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, giữa nguyên đơn và bị đơn có 02 (hai) người con chung tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 01/7/2012 và Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 04/12/2013 hiện đang sống với nguyên đơn. Tại phiên Tòa, nguyên đơn yêu cầu được tiếp tục được nuôi con chung, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng. Riêng bị đơn không có ý kiến gì về con chung.

Xét thấy, con chung đã được nguyên đơn nuôi dưỡng ổn định từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay, đồng thời để tránh những xáo trộn trong đời sống, tâm sinh lý, gây ra những ảnh hưởng không tốt đến việc phát triển bình thường của con chung nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu về nuôi con chung của nguyên đơn, giao con chung là cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 01/7/2012 và Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 04/12/2013 hiện đang sống với nguyên đơn cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nguyện vọng của cháu K. Việc giao con chung cho nguyên đơn tiếp tục nuôi dưỡng cũng phù hợp với ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách tại công văn số 157/P.LĐTBXH ngày 21/7/2020. Do nguyên đơn không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về tài sản chung: Do nguyên đơn tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[5] Về nợ chung: Do nguyên đơn tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng phù hợp và có căn cứ nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự:

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình:

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Ngô Thị Thu H (Đào) ly hôn ông Nguyễn Quốc T.

[2] Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Đăng K, sinh ngày 01/7/2012 và Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 04/12/2013 hiện đang sống với bà Ngô Thị Thu H cho bà Ngô Thị Thu H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục theo quy định của pháp luật, theo nguyện vọng của cháu K và ý kiến của Phòng Lao động Thương binh xã hội huyện Kế Sách. Ông Nguyễn Quốc T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Ông Nguyễn Quốc T không cấp dưỡng nuôi con chung do bà Ngô Thị Thu H không yêu cầu.

[3] Về tài sản chung: Do bà Ngô Thị Thu H tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[4] Về nợ chung: Do bà Ngô Thị Thu H tự khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét trong vụ án này.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Ngô Thị Thu H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng bà Ngô Thị Thu H đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0004129 ngày 20/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Kế Sách không nộp thêm. Ông Nguyễn Quốc T không chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho nguyên đơn đựơc quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại địa phương, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HNGĐ-ST ngày 04/08/2020 về tranh chấp ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:63/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về