Bản án 63/2020/DS-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHƯỚC LONG – TỈNH BẠC LIÊU

 BẢN ÁN 63/2020/DS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 28 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phước Long xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 78/2020/TLST-DS ngày 28 tháng 4 năm 2020 về việc tranh chấp hụi theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:133/2020/QĐST-DS ngày 24 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1978; Địa chỉ: ấp A, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (Có mặt)

2. Bị đơn: Chị Châu Việt C, sinh năm 1975; Địa chỉ: ấp A, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (Vắng mặt)

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1977; Địa chỉ: ấp A, xã Phước Long, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Văn T, sinh năm 1978; Địa chỉ: ấp A, xã P, huyện P, tỉnh Bạc Liêu. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 16 tháng 4 năm 2020, lời khai có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn anh Trần Văn T trình bày:

Anh có làm chủ dây hụi loại hụi 5.000.000 đồng mở ngày 30/9/2018 âm lịch, gồm 18 phần hụi, mỗi tháng khui một lần vào ngày 30 hàng tháng. Chị C tham gia 01 chưng. Chưng hụi này chị C đóng được 02 kỳ hụi sống và hốt hụi ở kỳ hụi thứ ba (ngày 30/11/2018 al), bỏ hụi 2.000.000 đồng, hốt được số tiền: 02 kỳ chết x 5.000.000đ + 15 kỳ sống x 3.000.000đ – cò 2.500.000đ = 52.500.000đ. Sau khi hốt hụi thì chị C đóng được đến kỳ thứ 5 (khui ngày 30/01/2019 al), từ kỳ hụi thứ 6 (khui ngày 30/02/2019 al) thì chị C không đóng hụi đến nay. Chưng hụi này đã mãng vào ngày 30/02/2020 âm lịch. Tính đến khi mãng hụi chưng hụi này chị C còn nợ anh là 13 kỳ hụi chết với số tiền 65.000.000đ. Tại đơn khởi kiện anh yêu cầu chị C trả cho anh số tiền 100.000.000 đồng nhưng nay anh xin rút một phần yêu cầu khởi kiện của anh, anh chỉ yêu cầu chị C trả cho anh số tiền hụi là 65.000.000 đồng của chưng hụi 5.000.000đ của dây hụi mở ngày 30/9/2018 âl đã mãng hụi vào ngày 30/02/2020 âl. Đối với 02 chưng hụi 2.000.000đ của dây hụi mở ngày 10/6/2018 al do hụi chưa mãng nên nay anh xin rút lại yêu cầu số tiền 35.000.000đ trong số tiền khởi kiện là 100.000.000đ đối với hai chưng hụi này, đến khi nào mãng hụi thì anh sẽ yêu cầu sau. Tại phiên tòa, anh yêu cầu tính lãi trên số tiền 65.000.000đ từ ngày mãn hụi là ngày 30/02/2020 âm lịch cho đến khi Tòa án giải quyết xong vụ án. Ngoài ra anh không còn yêu cầu gì khác.

Chị T thống nhất theo lời trình bày và yêu cầu của anh, chị T không có ý kiến hay yêu cầu gì khác.

* Bị đơn chị Châu Việt C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt nên Tòa án không lấy được lời khai.

Theo lời khai của chị C tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, chị C thừa nhận dây hụi mở ngày 30/9/2018 âm lịch loại hụi 5.000.000 đồng do anh T làm chủ chị C có tham gia 01 chưng và đã hốt, chị C còn nợ lại 13 lần hụi với số tiền là 65.000.000 đồng.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phước Long phát biểu ý kiến:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử đúng theo quy định pháp luật tố tụng dân sự, tuy nhiên việc gửi Quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát chưa đúng quy định tại khoản 2 Điều 220 của Bộ luật tố tụng dân sự; Đối với đương sự đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng, riêng bị đơn chưa chấp hành khoản 15, 16 Điều 70 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn T, buộc chị Châu Việt C có nghĩa vụ trả cho anh T và chị T số tiền 68.006.250 đồng, trong đó tiền hụi là 65.000.000 đồng và tiền lãi là 3.006.250 đồng. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự, đình chỉ yêu cầu của anh T đối với số tiền 35.000.000 đồng.

Về án phí: Chị C phải chịu 3.400.312 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng: Anh T khởi kiện yêu cầu chị C trả tiền hụi, chị C đang cư trú trên địa bàn huyện P nên căn cứ vào khoản 6 Điều 26, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án nhân dân huyện Phước Long thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền. Chị C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt nên Hội đồng xét xử giải quyết vắng mặt chị C là đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu của đương sự: Theo lời khai của chị C tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện P, chị C thừa nhận có tham gia 01 phần hụi loại hụi tháng 5.000.000 đồng mở ngày 30/9/2018 âm lịch do anh T làm chủ, chị C đã hốt hụi và còn nợ lại anh T 13 lần hụi với số tiền là 65.000.000 đồng. Như vậy, việc chị C có tham gia hụi của dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 30/9/2018 âm lịch do anh T làm chủ và còn nợ anh T số tiền hụi 65.000.000 đồng là thực tế có xảy ra, do đó, nay anh T yêu cầu chị C phải trả lại cho anh T số tiền hụi còn nợ 65.000.000 đồng là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Xét yêu cầu tính lãi: Do chị C không thực hiện nghĩa vụ góp hụi theo thỏa thuận, anh T phải bỏ tiền ra góp hụi thay cho chị C nên việc anh T yêu cầu chị C phải trả tiền lãi trên số tiền góp hụi là phù hợp theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tại phiên tòa anh T yêu cầu tính lãi trên số tiền hụi mà chị C còn nợ từ ngày mãn hụi là 30/02/2020 âm lịch (nhằm ngày 23/3/2020 dương lịch) đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày 28/9/2020) là 06 tháng 05 ngày với mức lãi suất 9%/năm là:

65.000.000 đồng x 09%/năm x 05 tháng 06 ngày = 3.006.250 đồng. Anh T xác định số tiền đóng hụi thay cho chị C là của vợ chồng anh T. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh T, buộc chị C phải trả cho anh T và chị T số tiền hụi còn nợ là 65.000.000 đồng và tiền lãi là 3.006.250 đồng, tổng cộng là 68.006.250 đồng.

[5] Tại phiên tòa anh T rút yêu cầu khởi kiện yêu cầu chị C trả số tiền hụi là 35.000.000đ, xét thấy việc anh T rút một phần đơn khởi kiện là hoàn toàn tự nguyên, không ai ép buộc nên căn cứ điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của anh T yêu cầu chị C trả số tiền hụi 35.000.000 đồng.

[6] Từ những nhận định trên, xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về án phí: Chị C phải chịu án phí theo quy định. Các đương sự khác không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 26, 35, 39, 147, 227, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ vào Điều 357, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Căn cứ vào Nghị định số 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn T đối với chị Châu Việt C. Buộc chị Châu Việt C có nghĩa vụ trả cho anh Trần Văn T và chị Nguyễn Thị T số tiền 68.006.250 đồng (Sáu mươi tám triệu không trăm lẻ sáu nghìn hai trăm năm mươi đồng), trong đó tiền hụi là 65.000.000 đồng (Sáu mươi lăm triệu đồng) và tiền lãi là 3.006.250 đồng (Ba triệu không trăm lẻ sáu nghìn hai trăm năm mươi đồng).

2. Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

3. Đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu khởi kiện của anh Trần Văn T yêu cầu chị Châu Việt C trả số tiền hụi là 35.000.000 đồng (Ba mươi lăm triệu đồng).

4. Về án phí: Chị Châu Việt C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 3.400.312 đồng. Các đương sự khác không phải chịu án phí. Anh Trần Văn T đã dự nộp số tiền tạm ứng án phí là 2.500.000đ theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009262 ngày 28/4/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phước Long nên được nhận lại.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự không có mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 63/2020/DS-ST ngày 28/09/2020 về tranh chấp hụi

Số hiệu:63/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phước Long - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về