TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT - TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử công khai sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 231/2019/HNGĐ-ST ngày 17 tháng 4 năm 2019 về việc “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 191/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 26/6/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 217/2019/QĐST-HNGĐ ngày 15/7/2019 giữa:
Nguyên đơn: Bà Đinh Thị D, sinh năm: 1986.
Nơi cư trú: Thôn Thiện Bình, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Bị đơn: Ông Cao Quốc Th, sinh năm: 1983.
Nơi cư trú: Thôn Thiện Bình, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.
Tại phiên tòa có mặt bà D, vắng mặt ông Th.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 10/4/2019, trong quá trình tố tụng và tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Đinh Thị D trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà Đinh Thị D và ông Cao Quốc Th tự nguyện tìm hiểu yêu thương chung sống vào năm 2002, nhưng đăng ký kết hôn tại UBND xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận vào ngày 01/6/2010.
Trong quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau, ông Th thường đánh đập, chửi bới bà D. Do thường xuyên bị bạo hành nên bà Th bỏ về nhà cha mẹ ruột sống. Đến năm 2004 ông Th đến xin lỗi cha mẹ tôi, vợ chồng trở về chung sống, nhưng ông Th không thay đổi tính nết. Khoảng 6 tháng nay, vợ chồng mạnh ai nấy sống, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay bà D xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông Th và yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn ông Cao Quốc Th.
Về con chung: có 01 con chung tên Cao Thành L, sinh ngày 17/02/2005. Sau khi ly hôn, bà D yêu cầu được nuôi con và yêu cầu ông Th cấp dưỡng nuôi con chung.
Đối với con tên Đinh Thị Huyền D, sinh ngày: 12/9/2002 bà Đinh thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về mức cấp dưỡng nuôi con và phương thức cấp dưỡng nuôi con: Bà Đinh thị D yêu cầu ông Cao Quốc Th cấp dưỡng tiền nuôi con chung tên Cao Thành L 1.000.000 đồng/tháng.
Về tài sản chung: Bà D khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Bà D khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Ông Cao Quốc Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông Th vẫn cố tình vắng mặt, nên Tòa án không tiến hành lấy lời khai và mở phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Đối với Thẩm phán từ khi thụ lý đến khi xét xử thực hiện đúng theo thủ tục. Hội đồng xét xử đúng như quyết định đưa vụ án ra xét xử, Hội đồng xét xử thể hiện sự vô tư khách quan khi xét xử, các đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình.
- Về nội dung: Căn cứ vào các chứng cứ tại hồ sơ thể hiện mâu thuẫn giữa bà D, ông Th đã trầm trọng. Do đó, căn cứ Điều 51, 53, 54, 56, 81, 82 Luật hôn nhân gia đình đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà D về việc xin ly hôn và giao con chung tên Cao Thành L, sinh ngày 17/02/2005 cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Về thủ tục tố tụng: Bà Đinh Thị D có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Cao Quốc Th, ông Th có hộ khẩu thường trú và nơi cư trú là Thôn Thiện Bình, xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết.
Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Cao Quốc Th đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông Th không đến Tòa án, không thể hiện ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ vào Điều 70, Điều 72, Điều 92, điểm b khoản 02 Điều 227, khoản 03 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xem như ông Th đã tự khước từ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và tiến hành xét xử vắng mặt ông Th.
Xét yêu cầu khởi kiện của bà Đinh Thị D, Hội đồng xét xử thấy rằng: Về quan hệ hôn nhân, bà Đinh Thị D và ông Cao Quốc Th có đăng kí kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 20 ngày 01/6/2010 tại UBND xã Thiện Nghiệp, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận nên quan hệ hôn nhân của bà D và ông Th là hợp pháp.
Luật hôn nhân và gia đình quy định vợ chồng thì phải biết thương yêu, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau cùng xây dựng gia đình hạnh phúc đồng thời phải biết tôn trọng, giữ gìn danh dự, nhân phẩm, uy tín cho nhau. Qua lời khai của bà D, cũng như xác minh tại địa phương thể hiện thực tế cuộc sống hôn nhân của bà D, ông Th không còn hạnh phúc, ông bà không còn quan tâm, tôn trọng, chung sống với nhau làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, ông bà đã tự sống xa nhau từ tháng 10/2018 cho đến nay, không ai còn quan tâm đến ai, điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Th không đến Tòa trình bày ý kiến, mặc dù Tòa án cũng tạo điều kiện triệu tập ông Th đến hòa giải để ông bà hàn gắn tình cảm, nhưng ông Th vắng mặt, như vậy ông Th đã tự khước từ việc hòa giải nên Tòa án không thể tiến hành hòa giải được. Điều này chứng tỏ mối quan hệ hôn nhân của ông bà đã thật sự rạn nứt, ông Th không muốn hòa giải tình cảm với bà D nếu tiếp tục chung sống cũng không có hạnh phúc. Vì vậy để đảm bảo quyền lợi và nhằm ổn định cuộc sống cho các bên, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà D là phù hợp.
Về con chung: có con chung tên Cao Thành L, sinh ngày 17/02/2005. Hiện nay cháu L đang do bà D trực tiếp nuôi dưỡng, bà D có yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung sau khi ly hôn. Xét yêu cầu này Hội đồng xét xử thấy rằng việc giao con chung cho ai nuôi phải bảo đảm đời sống của các cháu được ổn định, nuôi dưỡng trong điều kiện tốt nhất vì vậy chấp nhận yêu cầu của bà D giao con chung tên Cao Thành L, sinh ngày 17/02/2005 cho bà D trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật.
Đối với con tên Đinh Thị Huyền D, sinh ngày: 12/9/2002 bà Đinh thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về phương thức cấp dưỡng nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con: Bà Đinh thị D yêu cầu ông Cao Quốc Th cấp dưỡng tiền nuôi con chung tên Cao Thành L 1.000.000 đồng/tháng, yêu cầu này của bà D là phù hợp với nhu cầu thực tế của cháu L, để đảm bảo quyền lợi cho cháu Lợi, nên chấp nhận yêu cầu này của bà D là phù hợp với quy định của pháp luật.
Về tài sản chung và nợ chung: Do bà D khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Xét ý kiến trình bày của đương sự, cũng như quan điểm đề nghị tại Tòa của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận về việc xin ly hôn của bà Đinh Thị D và yêu cầu nuôi con chung là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Về án phí: Căn cứ vào khoản 04 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì bà Đinh Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí về việc yêu cầu xin ly hôn.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 01 Điều 28, khoản 01 Điều 35, Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.
Tuyên xử:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đinh Thị D. Bà Đinh Thị D được ly hôn với ông Cao Quốc Th.
Về con chung: Giao con chung tên Cao Thành L, sinh ngày 17/02/2005 cho bà Đinh Thị D tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng.
Sau khi ly hôn, cha mẹ có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con chưa thành niên, các con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Về phương thức cấp dưỡng nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con: Ông Cao Quốc Th cấp dưỡng tiền nuôi con chung tên Cao Thành L 1.000.000 đồng/tháng, kể từ khi án có hiệu lực cho đến khi con tròn 18 tuổi và có khả năng lao động.
Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm thực hiện nghĩa vụ thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 01 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 02 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Về tài sản chung: Bà D khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về nợ chung: Bà D khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Bà Đinh Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Ngày 17/4/2019 bà D đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí do Chi cục Thi hành án Dân sự Thành phố Phan Thiết thu biên lai số 0024391 nay được chuyển sang án phí.
Ông Cao Quốc Th phải nộp 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con chung. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Án xử công khai có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn. Quyền kháng cáo của nguyên đơn là 15 ngày tính từ ngày tuyên án (31/7/2019), quyền kháng cáo của bị đơn là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 63/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về