TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH VĨNH LONG
BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 31/07/2019 VỀ LY HÔN GIỮA BÀ N VÀ ÔNG D
Ngày 31 tháng 7 năm 2019 tại phòng xử án, Tòa án nhân dân thành phố V tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 145/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2019 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 517/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 6 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 619/2019/QĐST-HNGĐ ngày 08/7/2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1977, nơi cư trú: số nhà 23, ấp P, xã Đ, huyện L, tỉnh Vĩnh Long, có đơn xin vắng mặt.
Bị đơn: Ông Lê Văn D, sinh năm 1967, nơi cư trú: số nhà 16, ấp M, xã T, thành phố V, tỉnh Vĩnh Long, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện xin ly hôn ngày 03 tháng 4 năm 2019 bà Nguyễn Thị N trình bày: Bà và ông Lê Văn D sau thời gian tìm hiểu đi đến hôn nhân, Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 02/2005/CN-KH ngày 25 tháng 8 năm 2005, bà cùng ông D chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn vì ông D không biết lo cho gia đình mà thường đi uống rượu say, thường hay tranh cãi với nhau, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và đã sống ly thân từ năm 2008 đến nay (trên 11 năm).
Vì mâu thuẫn nêu trên, nên bà N yêu cầu giải quyết được ly hôn với ông D. Bà N và ông D chung sống với nhau có 01 người con chung tên là Lê Nguyễn P, sinh ngày 24 tháng 3 năm 2004. Khi ly hôn bà N yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.
Tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông Lê Văn D đã được triệu tập hợp lệ lần thư 2 nhưng vắng mặt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thị N và ông Lê Văn D kết hôn năm 2005, có đăng ký kết hôn đúng trình tự quy định của pháp luật, sống chung với nhau một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, đời sống vợ chồng không hạnh phúc, từ đó đã sống ly thân, nên bà N có đơn yêu cầu xin được ly hôn với ông D, bà N là nguyên đơn, ông D là bị đơn có đăng ký hộ khẩu thường trú tại thành phố V. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, Tòa án nhân dân thành phố V thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng quy định của pháp luật. Đồng thời, ông D đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần vắng mặt không có lý do, bà N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định.
[2] Về nội dung: Theo chứng cứ do bà N cung cấp có trong hồ sơ vụ án, thì bà N và ông D có đăng ký kết hôn, giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số: 02/2005/CN-KH ngày 25 tháng 8 năm 2005. Thời gian chung sống thì phát sinh mâu thuẫn và không tự giải quyết được, cuộc sống không hạnh phúc dẫn đến việc bà N và ông D sống ly thân trên 11 năm nay, ông D đã được triệu tập nhiều lần không đến tham gia giải quyết, từ đó cho thấy ông không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng, mâu thuẫn đã thật sự trầm trọng, xét thấy việc bà N yêu cầu được ly hôn với ông D là có cơ sở chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Bà N và ông D chung sống với nhau có 01 người con chung tên là Lê Nguyễn P, sinh ngày 24 tháng 3 năm 2004. Bà N yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con.
Xét thấy từ khi ly thân với nhau cháu P là do bà N nuôi dưỡng và tại biên bản ghi lời khai ngày 09/5/2019, khi được hỏi ý kiến thì cháu P cũng có nguyện vọng sống với bà N, ông D được triệu tập nhiều lần không đến tham gia giải quyết vụ án, nên để cháu P cho bà N tiếp tục nuôi dưỡng là hợp lý, đúng với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng, do bà N và cháu P không có yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
[4] Về tài sản chung; nợ chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội, đối với vụ án hôn nhân và gia đình nguyên đơn phải chịu tiền án phí, do đó bà N phải chịu án phí số tiền phải nộp là 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.
Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân:
- Cho bà Nguyễn Thị N ly hôn ông Lê Văn D.
2. về nuôi con chung:
- Giao cháu Lê Nguyễn P, sinh ngày 24 tháng 3 năm 2004 cho bà N tiếp tục nuôi dưỡng.
Không ai được quyền ngăn cản việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung đối với ông D, nhưng nếu ông D lạm dụng việc thăm nom để gây cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì bà N có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con đối với ông D.
3. Về án phí sơ thẩm: Buộc bà Nguyễn Thị N phải nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền án phí sơ thẩm xin ly hôn, trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố V, theo biên lai thu tiền số 0004481 ngày 11/4/2019.
4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lê.
Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 31/07/2019 về ly hôn giữa bà N và ông D
Số hiệu: | 63/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Long - Vĩnh Long |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/07/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về