Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 63/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Ngày 29/11/2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ B, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 340/2019/TLST-HNGĐ ngày 17/10/2019 về tranh chấp ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2019/QĐXX -ST ngày 04/11/2019; theo quyết định hoãn phiên tòa số: 37/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12/11/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lò Thị X – Sinh năm 1980."Có mặt".

Địa chỉ: Đội 15, xã T X, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

2. Bị đơn: Anh Quàng văn H – Sinh năm 1978."Có mặt".

Địa chỉ: Đội 15, xã T X, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn đề ngày 17/10/2019 và trong quá trình tố tụng tại Tòa án nhân dân huyện Đ B, chị Lò Thị X(nguyên đơn) trình bày:

1. Về hôn nhân: Tôi và anh Hồng lấy nhau từ năm 1995 và không đăng ký kết Trên cơ sở tự nguyện. Hai người chung sống hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do Hồng nghiện rượu, sau đó hai người thường xuyên xảy ra cãi cọ, xô sát nhau, đời sống chung không hạnh phúc, tình cảm vợ chồng bị rạn nứt, không thể hàn gắn được. Hai bên gia đình và thôn bản đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Hiện tại hai vợ chồng đang sống ly thân. Vì vậy tôi làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với anh Hồng.

2. Về con chung: Chị Xuân khai chị và anh Hồng có 02 con chung là: Quàng Thị Nhung, sinh ngày 06/7/1995 và Quàng Văn Quân, sinh ngày 05/4/1998. Các cháu đều đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết. 3.Về tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 21/10/2019 và trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án (bị đơn) anh Quàng văn H trình bày:

1. Về hôn nhân: Tôi và cô Xuân lấy nhau từ năm 1995 không có đăng ký kết hôn mà chỉ tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán, chúng tôi chung sống hạnh phúc đến năm 2015 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tôi sử dụng rượu và có vài lần chửi vợ con. Do tôi dạy bảo con cái trong nhà nhưng vợ tôi không nhất trí.

Nay cô Xuân thấy không thể sống chung với tôi được nữa nên đã xin ly hôn, tôi không đồng ý ly hôn, vì tôi vẫn còn yêu vợ con.

2. Về con chung: Anh Hồng công nhận vợ chồng có 02 con chung: Cháu Quàng Thị Nhung, sinh năm 1995 và cháu Quàng Văn Quân, sinh năm 1998. Các cháu đều đã trưởng thành nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, nợ phải trả, nợ lấy về: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật: Căn cứ đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo của nguyên đơn chị Lò Thị Xuân, Tòa án xác định đây là vụ án: Tranh chấp ly hôn.

[2].Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Chị Xuân xin ly hôn với anh Hồng, anh Hồng có hộ khẩu thường trú tại xã Thanh Xương, huyện Đ B, tỉnh Điện Biên, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đ B theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39/Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3]. Về điều luật áp dụng: Chị Xuân và anh Hồng chung sống với nhau từ năm 1995, đến năm 2019 thì chị Xuân khởi kiện xin ly hôn, nên Tòa án sẽ áp dụng các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết.

[4]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lò Thị Xvà anh Quàng văn H lấy nhau không đăng ký kết hôn. Do vậy hôn nhân giữa hai người là không hợp pháp. Quá trình chung sống do anh Hồng nghiện rượu và hay chửi vợ con dẫn đến hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, không thể chung sống với nhau. Họ hàng hai bên gia đình và thôn bản đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa chị Xuân và anh Hồng đang trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị Xuân xác định tình cảm của mình đối với anh Hồng không còn nữa, hai người không còn thể hiện sự quan tâm đến nhau. Tại phiên tòa chị Xuân vẫn giữ nguyên quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hồng. Hội đồng xét xử xét thấy, để đảm bảo quyền lợi của đương sự và để giải phóng cho chị Xuân khỏi tình trạng hiện tại khi mà hôn nhân không thể đem lại hạnh phúc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Xuân và áp dụng Khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân gia đình năm 2014 xử không công nhận chị Lò Thị Xvà anh Quàng văn H là vợ chồng.

[5]. Về con chung: Anh chị có 02 con chung là: Quàng Thị Nhung, sinh ngày 06/7/1995 và Quàng Văn Quân, sinh ngày 05/4/1998.

Các cháu đều đã trưởng thành không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6].Về tài sản:

[6.1]. Tài sản riêng, nợ phải trả, nợ lấy về: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[6.2]. Tài sản chung, diện tích ruộng, nương: Không yêu cầu giải quyết.

[7]. Về án phí: Căn cứ Điều 147/BLTTDS; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Chị Xuân phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39; Khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 235, Điều 264 và Điều 267/BLTTDS;

- Căn cứ Khoản 1 Điều 9, Khoản 1 Điều 14, Điều 53, Điều 58, Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điểm b Khoản 3 Nghị quyết số 35/2000/NQ-QH ngày 09/6/2000 của Quốc hội.

1- Tuyên xử: Không công nhận chị Lò Thị Xvà anh Quàng văn H là vợ chồng.

2 - Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Xuân và anh Hồng là không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3- Về Tài sản: Chấp nhận việc không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản của chị Lò Thị Xvà anh Quàng văn H.

4- Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147/BLTTDS; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Chị Xuân phải chịu 300.0000đ án phí Dân sự sơ thẩm. Chị Xuân đã nộp 300.000đ theo biên lai số: AA/2016/0003287 ngày 17/10/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ B.

5- Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HNGĐ-ST ngày 29/11/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:63/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về