TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN THÀNH , TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 63/2018/HSST NGÀY 31/10/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 31/10/2018 tại Trụ sở UBND xã Nguyệt Đức, Tòa án nhân dân huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 54/2018/HSST ngày 28/9/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2018/HSST-QĐ ngày 09/10/2018 đối với:
Bị cáo: Tạ Huy L, sinh năm 1987.
Nơi cư trú: Thôn K, xã N, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tạ Huy Đ1 (đã chết) và bà Vũ Thị Đ2, sinh năm 1962; Vợ: Đào Thị D, sinh năm 1985 (đã ly hôn); Con: có 01 con, sinh năm 2015.
Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
-Tại bản án số 102/2007/HSST ngày 22/10/2007 của TAND huyện gia Lâm, thành phố Hà Nội phạt bị cáo 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.
- Tại bản án số 13/2009/HSST ngay 23/4/2009 của TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt bị cáo 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999.
- Ngày 22/8/2011 bị Công an huyện Thuận Thành xử phạt hành chính 1.000.000đ về hành vi Đánh bạc.
- Tại bản án số 06/2012/HSST ngày 09/02/2012 của TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt bị cáo 30 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt ngày 10/3/2014.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/8/2018. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.
Bị hại: Anh Nguyễn Trung V, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang (Vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Hoàng Thị Thanh N, sinh năm 1987. Địa chủ Thôn T, xã N, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ ngày 13/3/2018 Tạ Huy L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave màu xanh đen - bạc, BKS 98D1-46176 của anh Nguyễn Trung V, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn Thắng Lợi, xã Đông Tân, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang chở anh V đi từ Khu công nghiệp Khai Sơn, huyện Thụân Thành về nhà L, là nơi anh V thuê trọ. Khi về đến nhà anh V đi vào trong nhà con L mang xe vào để ở khu bếp cũ. Lúc này L nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe của anh V, L tắt máy xong lại bật khóa điện lên để đèn mở sáng rồi rút chìa khóa mang vào tránh V. Sau đó anh V đi ngủ còn L ra ngoài ngồi chơi. Khi L thấy anh V ngủ say, L liền dắt chiếc xe của anh V ra cổng nổ máy đi đến nhà chị Hoàng Thị Thanh N, sinh năm 1987 ở thôn Thư Đôi, xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh để hỏi vay tiền nhưng chị Nhàn không cho vay nên L bảo chị Nhàn là L đặt chiếc xe để làm tin để vay tiền và hẹn hai ngày sau thì L sẽ mang tiền đến trả để chuộc lại xe. Do là chỗ quen biết và tin tưởng L nên chị Nhàn đồng ý nhận chiếc xe làm tin và cho L vay số tiền 4.000.000đ. Sau đó L không về nhà mà bỏ đi và ăn tiêu hết số tiền đã vay của chị Nhàn
Đến sáng ngày hôm sau anh V phát hiện bị mất xe nên anh V đã điện thoại và nhắn tin cho L biết việc anh V bị mất xe và bảo L đi về nhà để giải quyết nhưng L không về. Sau đó anh V nhiều lần nhắn tin hỏi L nếu có lấy xe mang đi cầm cố thì cho anh V biết địa chỉ để anh V đi chuộc xe nhưng đến ngày 8/3/2018 L mới nhắn tin cho anh V số điện thoại của chị Nhàn để liên hệ chuộc xe.
Quá trình điều tra L đã bỏ trốn khỏi địa phương nên ngày 16/7/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành đã ra lệnh bắt để tạm giam đối với L. Do L không có mặt tại địa phương nên Cơ quan CSĐ Công an huyên Thuận Thành không thi hành lệnh bắt để tạm giam được. Do vậy ngày 07/8/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thụân Thành đã ra Lệnh truy nã đối với L. Đến 21 giờ cùng ngày L bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành bắt giữ.
Khi chị Nhàn biết chắc xe môtô mà L để lại làm tin là vật chứng của vụ án hình sự nên ngày 20/3/2018 chị Nhàn đã tự nguyện giao nộp chiếc xe cho Cơ quan CSĐ công an huyện Thuận Thành. Nay chị Nhàn yêu cầu L phải hoàn trả lại chị số tiền 4.000.000đ.
Ngày 27/3/2018 Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Thành đã trả lại chiếc K cho anh V. Anh V đã nhận lại chiếc xe và không yêu cầu L phải bồi thường gì thêm.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐ ngày 22/3/2018 của Hội đồng định giá UBND huyện Thuận Thành kết luận: 01 xe môtô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave Anpha, BKS 98D1-46176 tại thời điểm bị chiếm đoạt trị giá 12.000.000đ.
Với nội dung trên tại bản cáo trạng số 55/ Ctr-VKS ngày 27/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành đã truy tố Tạ Huy L về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo thừa nhận hành vi của mình là phạm tội, xin giảm nhẹ hình phạt.
Đối với số tiền 4.000.000đ bị cáo vay của chị N đến nay bị cáo chưa hoàn trả lại chị N. Khi nào bị cáo chấp hành án xong trở về địa phương bị cáo sẽ hoàn trả lại chị N.
Anh Nguyễn Trung V đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Theo lời khai của anh V tại Cơ quan điều tra thể hiện: ngày 13/3/2018 anh bị Tạ Huy L trộm cắp một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave màu xanh đen-bạc, BKS 98D1-46176. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại cho anh chiếc xe này. Nay anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm
Chị Hoàng Thị Thanh N trình bày: Ngày 13/3/2018 Tạ Huy L đến nhà chị để hỏi vay tiền. Do là chỗ quen biết và tin tưởng, nên chị đồng ý nhận chiếc xe làm tin và cho L vay số tiền 4.000.000đ. L hẹn hai ngày sau sẽ mang tiền đến trả chuộc lại xe. Khi nhận chiếc xe chị không biết là tài sản do trộm cắp mà có. Sau khi biết đây là tài sản do L trộm cắp mà có thì chị đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra. Nay chị yêu cầu L phải hoàn trả lại chị số tiền 4.000.000đ. Ngoài ra chị không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì khác
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành sau khi phân tích, đánh giá tính chất, nguyên nhân, động cơ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm và đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên tội danh như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo từ 12 đến 14 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét giải quyết.
Áp dụng Điều 465 Bộ luật dân sự: Bụôc bị cáo phải hoàn trả chị Hoàng Thị Thanh N số tiền 4.000.000đ.
Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt không tranh luận gì về các vấn đề có liên quan.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra, cùng thời gian, địa điểm phạm tội cũng như lời khai của người bị hại, người liên quan. Đã có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 22 giơ ngày 13/3/2018 Tạ Huy L đã có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Trung V, sinh năm 1986. Địa chỉ: Thôn T, xã Đ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang một chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda, loại xe Wave màu xanh đen - bạc, BKS 98D1-46176 có giá trị theo kết luận của Hội đồng định giá là 12.000.000đ. Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Thành đã truy tố bị cáo với tội danh và điều luật đã viện dẫn ở trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sở hữu riêng của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy phải đưa ra xét xử kịp thời để giáo dục, răn đe bị cáo và phòng ngừa chung.
Xét về tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy: Bị cáo sinh gia trong gia đình con em lao động, bản thân bị cáo đã có gia đình , vợ con nhưng bị cáo không chịu lao động, làm ăn chân chính nhưng lại muốn có tiền ăn tiêu một cách nhanh chóng dẫn đến con đường phạm tội. Tuy lần phạm tội này của bị cáo có tính chất ít nghiêm trọng nhưng trước đó bị cáo đã 03 lần bị Tòa án các cấp xét xử về tội Trộm cắp tài sản: Ngày 22/10/2007 bị TAND huyện Gia Lâm , thành phố Hà Nội phạt bị cáo 10 tháng tù; Ngày 23/4/2009 bị TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 15 tháng tù; Ngày 09/02/2012 bị TAND huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh xử phạt 30 tháng tù (Chấp hành xong hình phạt ngày 10/3/2014) và ngày 22/8/2011 bị Công an huyện Thuận Thành xử phạt hành chính về hành vi Đánh bạc. Đến nay bị cáo đã được xóa án tích nên được coi là không có tiền án, tiền sự nhưng có nhân thân xấu. Do vây cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ giáo dục, cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội. Tuy nhiên khi lượng hình cung cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì sau tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm s khoan 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Trung V đã được Cơ quan điều tra trả lại tài sản bị cáo trộm cắp. Nay anh V không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm do vậy không đặt ra xem xét giải quyết.
Đối với chị Hoàng Thị Thanh N là người nhận chiếc xe làm tin để cho bị cáo vay số tiền 4.000.000đ. Tuy nhiên chị N không biết chiếc xe là tài sản do trộm cắp mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
Đối với số tiền 4.000.000đ mà chị N cho L vay, nay chị N yêu cầu L phải trả chị số tiền này và bị cáo L cũng đồng ý. Xét thấy đây là yêu cầu hợp pháp của chị N nên cần chấp nhận.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Tạ Huy L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 465 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH:
Xử phạt: Tạ Huy L 12 (Mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/8/2018.
Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
Buộc bị cáo phải trả c Hoàng Thị Thanh N số tiền 4.000.000đ (Bốn triệu đồng).
Kể từ khi người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi suất theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền chưa thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng án phí dân sự sơ thẩm)
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án 63/2018/HSST ngày 31/10/2018 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 63/2018/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Thành - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 31/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về