Bản án 63/2017/HNGĐ-ST ngày 14/11/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 63/2017/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 14 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện A, Toà án nhân dân huyện A xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 311/2017/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 10 năm 2017 về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2017/QĐXXST - HNGĐ ngày 25 tháng 10 năm 2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Bích P, sinh năm 1981; cư trú tại thôn K, xã H, huyện A, thành phố Hải Phòng; có mặt tại phiên toà.

- Bị đơn: Anh Mai Văn Đ, sinh năm 1979; cư trú tại đội 8, thôn H, xã Đ, huyện A, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà (có lời khai đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn, tại các bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Bích P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Mai Văn Đ kết hôn với nhau do tự nguyện và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện A vào năm 2005. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại đội 8, thôn H, xã Đ, huyện A. Quá trình chung sống, vợ chồng hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do có nhiều khó khăn về kinh tế dẫn đến bất đồng về quan điểm sống, tính cách không hợp, xảy ra va chạm cãi, chửi nhau. Mâu thuẫn đã được gia đình, chính quyền địa phương khuyên ngăn, hoà giải nhưng không có kết quả mà ngày càng căng thẳng, trầm trọng, không còn khả năng khắc phục.

Do mâu thuẫn căng thẳng nên từ năm 2015, mặc dù vợ chồng vẫn ở chung cùng nhà nhưng thực tế đã sống ly thân với nhau. Đến tháng 4 năm 2017, chị đã bỏ đi nơi khác, sống ly thân với anh Đ; từ đó đến nay, vợ chồng không ai quan tâm và trách nhiệm đến nhau. Nay chị Nguyễn Thị Bích P xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Mai Văn Đ.

Về con chung: Chị và anh Mai Văn Đ có 01 con chung Mai Trung H – sinh ngày 08 tháng 7 năm 2008, con chung hiện do chị đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị P đề nghị Tòa án giao con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng và chị không yêu cầu anh Đ phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Tại Biên bản lấy lời khai ngày 19 tháng 10 năm 2017, bị đơn anh Mai Văn Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Về thời gian và điều kiện kết hôn của vợ chồng như chị Nguyễn Thị Bích P đã trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, hai người chung sống cùng nhau tại đội 8, thôn H, xã Đ, huyện A. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp. Do mâu thuẫn căng thẳng nên từ khoảng tháng 3 năm 2017, vợ chồng đã sống ly thân. Hiện tại, hai bên không còn quan tâm, trách nhiệm đến nhau. Nay chị Nguyễn Thị Bích P xin ly hôn, anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đồng ý với yêu cầu xin ly hôn của chị P, đề nghị Tòa án giải quyết cho hai người được ly hôn.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị Bích P có 01 con chung như chị P đã trình bày là đúng, con chung hiện do chị P đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn anh đồng ý để chị P được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho chị P.

Về tài sản: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về tài sản.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A phát biểu ý kiến khẳng định:

- Về việc tuân theo pháp luật về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, những người tiến hành tố tụng và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự, các điều 51, 55 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị Nguyễn Thị Bích P được ly hôn với anh Mai Văn Đ; Về con chung, căn cứ các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình, giao con chung Mai Trung H – sinh ngày 08 tháng 7 năm 2008 cho chị Nguyễn Thị Bích P nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung của anh Đ cho chị P, khi nào chị P có yêu cầu sẽ xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác, thời hạn nuôi con chung tính từ ngày 15 tháng 11 năm 2017 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về việc xét xử vắng mặt của bị đơn: Anh Mai Văn Đ có lời khai đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn anh Mai Văn Đ.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của các bên đương sự, các tài liệu, chứng cứ khác do nguyên đơn cung cấp và do Tòa án thu thập có trong hồ sơ vụ án đã xác định chị Nguyễn Thị Bích P và anh Mai Văn Đ kết hôn với nhau do tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện A vào năm 2005. Quá trình chung sống, hai bên đã phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nên thường xảy ra va chạm cãi, chửi nhau; hiện tại vợ chồng đã sống ly thân, không ai quan tâm đến ai. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Bích P và anh Mai Văn Đ đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ Điều 55 Luật Hôn nhân và Gia đình, công nhận sự thuận tình ly hôn của chị Nguyễn Thị Bích P và anh Mai Văn Đ.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Bích P và anh Mai Văn Đ có 01 con chung Mai Trung H – sinh ngày 08 tháng 7 năm 2008, con chung hiện do chị P đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn chị Nguyễn Thị Bích P và anh Mai Văn Đ đều có quan điểm đề nghị Tòa án giao con chung cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng và anh Đ không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy quan điểm của các bên đương sự hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật và cũng phù hợp với nguyện vọng của con chung nên được chấp nhận; giao con chung Mai Trung H cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung của anh Đ cho chị P, khi nào chị P có yêu cầu sẽ xem xét giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

[4] Về tài sản: Chị Nguyễn Thị Bích P và anh Mai Văn Đ đều xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết về tài sản nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về vấn đề tài sản.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bích P phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 28; các điều 143, 147, 227 và 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ Điều 39 Bộ luật Dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 55, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ các điều 6, 7, 9 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016, Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Bích P và anh Mai Văn Đ.

2. Về con chung: Giao con chung Mai Trung H – sinh ngày 08 tháng 7 năm 2008 cho chị Nguyễn Thị Bích P trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung của anh Mai Văn Đ cho chị Nguyễn Thị Bích P, khi nào chị P có yêu cầu sẽ xem xét, giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

Thời hạn nuôi con tính từ ngày 15 tháng 11 năm 2017 đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Bích P phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước. Chị P đã nộp số tiền 300.000đ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (theo Biên lai thu tiền số 0007299 ngày 04 tháng 10 năm 2017) nên không phải nộp nữa.

Nguyên đơn có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị đơn vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành án tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

294
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2017/HNGĐ-ST ngày 14/11/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn

Số hiệu:63/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:14/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về