Bản án 629/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 629/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 619/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 650/2020/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đàm Hùng T, sinh năm 1970 tại tỉnh Thái Nguyên; Tên gọi khác: Không; Nơi ĐKHKTT: Tổ 03, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đàm Hùng T, sinh năm 1939 (liệt sĩ); Con bà: Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm 1945; Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1975 (đã ly hôn); Con: Chưa có; Tiền sự: Không.

Tiền án: Tại bản án số 148/2016/HSST ngày 20/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 48 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/6/2019, chấp hành xong án phí ngày 20/7/2016.

Nhân thân:

Tại bản án số 303/1996/HSST ngày 15/8/1996 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Tổ chức dùng chất ma túy.

Tại bản án số 288/2005/HSST ngày 05/12/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên, xử phạt 09 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/6/2012, xong án phí ngày 28/9/2012.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2020 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Ngọc L, sinh năm 1969; Địa chỉ: Tổ 01, phường T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (có mặt).

Người chứng kiến:

1. Ông Bùi Đình T, sinh năm 1956; Địa chỉ: Tổ 10, phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

2. Ông Lương Đức H, sinh năm 1961; Địa chỉ: Địa chỉ: Tổ 10, phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Sáng ngày 11/10/2020, Đàm Hùng T điều khiển xe mô tô BKS 20B1- 867.83 đi từ nhà đến khu vực chợ Sơn Cẩm để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Khi đến nơi T gặp và hỏi mua 450.000 đồng ma túy của một nam thanh niên không quen biết, nam thanh niên đó nhận tiền và đưa lại cho T số ma túy gồm: 01 gói ma túy được gói bằng tờ tiền mệnh giá 2.000 đồng, 01 gói nilon màu trắng bên trong đều chứa ma túy tổng hợp dạng đá có 02 viên ma túy tổng hợp hồng phiến đựng trong ống nhựa màu vàng. Mua xong, T cất giấu ma túy vào hai ống tay áo đang mặc trên người rồi đi về nhà. Đến khoảng 10 giờ 50 phút cùng ngày, khi T về đến khu vực tổ 10, phường Tân Long thì bị lực lượng Công an phường Tân Long kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. T đã tự giác giao nộp từ ống áo tay trái T đang mặc 01 gói bằng tờ tiền ngân hàng Nhà nước Việt Nam mệnh giá 2.000 đồng bên trong chứa tinh thể màu trắng, từ ống áo tay phải T đang mặc 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng T khai đó đều là ma túy tổng hợp dạng đá và 01 đoạn ống nhựa màu vàng bịt hai đầu bên trong có chứa 02 viên nén màu hồng T khai là ma túy tổng hợp dạng hồng phiến T mua để sử dụng cho bản thân.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành cân xác định khối lượng số chất tinh thể màu trắng và 02 viên nén màu hồng thu giữ của Đàm Hùng T được niêm phong trong phong bì ký hiệu T và T1 có tổng khối lượng 0,882 gam và niêm phòng thành 3 bì gồm T2, T3, T4 gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 1311/KL-KTHS ngày 20/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận:

+ Mẫu chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu T2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,489 gam.

+ Mẫu chất tinh thể màu trắng trong phong bì ký hiệu T3 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng là 0,199 gam.

+ Mẫu các viên nén màu hồng trong phong bì ký hiệu T4 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,194 gam.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Đàm Hùng T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng của vụ án gồm: 03 bì niêm phong ký hiệu T2, T3, T4 bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định. 01 xe mô tô BKS 20B1-867.83 nhãn hiệu Yamaha, loại sirus màu xám đen, dung tích xi lanh 113, số máy E3T6E169992, số khung RLCUE1710GY114494, loại xe cũ đã qua sử dụng.

Tại bản cáo trạng số 624/CT-VKSTPTN ngày 24/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Đàm Hùng T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo toàn bộ diễn biến, hành vi, mục đích phạm tội của mình. Bị cáo không có ý kiến gì về tội danh và điều luật mà Cáo trạng đã truy tố. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Ngọc Lâm đề nghị được trả lại xe mô tô BKS 20B1-867.83 để quản lý sử dụng và không có yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự.

Trong phần tranh luận: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên luận tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249;

điểm s, x khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự tuyên bố Đàm Hùng T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy còn lại sau giám định, trả lại xe mô tô BKS 20B1-867.83 cho ông Nguyễn Ngọc Lâm quản lý sử dụng và buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.

Tại lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt thấp nhất để có cơ hội phụng dưỡng mẹ già.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét khách quan toàn bộ các chứng cứ, ý kiến đề nghị của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các thủ tục, trình tự tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[2] Trên cơ sở đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong đồ vật bị tạm giữ, kết luận giám định, lời khai của người chứng kiến, vật chứng của vụ án và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xác định:

Hồi 10 giờ 50 phút ngày 11/10/2020 tại khu vực tổ 10, phường Tân Long, thành phố Thái Nguyên, Đàm Hùng T có hành vi tàng trữ 0,882 gam ma túy loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân, thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ vật chứng. Xét động cơ, mục đích phạm tội, khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ, thì hành vi của bị cáo Đàm Hùng T đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy“ theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định. “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm:

a....., b......

c, Heroine ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố Đàm Hùng T về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng, xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất ma túy của Nhà nước. Hành vi của bị cáo đã góp phần gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây bức xúc trong quần chúng nhân dân. Bị cáo tự mình thực hiện hành vi phạm tội, không có đồng phạm khác.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải; bị cáo là con của liệt sĩ, vì vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nên phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[5] Xét nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là con trai duy nhất trong gia đình có truyền thống cách mạng nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, mắc nghiện ma túy từ khi còn rất trẻ; đã được giáo dục, cải tạo nhiều lần bằng hình nghiêm khắc là phạt tù có thời hạn trong thời gian khá dài nhưng sau khi ra tù bị cáo vẫn tiếp tục sử dụng ma túy. Bị cáo không có nghề nghiệp, không có vợ con. Bị cáo nhận thức rõ tác hại của ma túy, nhưng vẫn cố ý phạm tội, trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

[6] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần có mức hình phạt nghiêm khắc để giáo dục bị cáo nói riêng, góp phần ngăn ngừa tội phạm về ma túy nói chung. Xét thấy mức hình phạt từ 30 đến 36 tháng tù đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên đề xuất đối với bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

Hành vi phạm tội của bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo là đối tượng nghiện ma túy nhiều năm, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, tại địa phương không có tài sản gì. Do đó Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sụng là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự cần tịch thu tiêu hủy 03 bì niêm phong ký hiệu T2, T3, T4 bên trong chứa ma túy. Tờ tiền mệnh giá 2000 đồng bị cáo dùng để gói ma túy cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Về 01 xe mô tô BKS 20B1-867.83 nhãn hiệu Yamaha, loại sirus màu xám đen, dung tích xi lanh 113, số máy E3T6E169992, số khung RLCUE1710GY114494 (xe cũ đã qua sử dụng) là xe bị cáo mượn của ông Nguyễn Ngọc Lâm. Ngày 11/11/2020 khi cho bị cáo mượn xe ông Lâm không biết bị cáo dùng để đi mua ma túy. Do đó Hội đồng xét xử thấy rằng cần trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông Lâm quản lý sử dụng là phù hợp. Về trách nhiệm dân sự, ông Lâm không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[8] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này Đàm Hùng T khai mua của 01 người nam thanh niên không rõ lai lịch ở khu vực chợ Sơn Cẩm. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý nên Tòa án không đặt ra xem xét.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; điểm s, x khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự; Điều 326 của Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đàm Hùng T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Đàm Hùng T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam 11/10/2020.

Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam Bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 03 bì niêm phong ký hiệu T2, T3, T4 bên trong chứa ma túy, mặt sau có 02 dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên và chữ ký của những người tham gia niêm phong.

Trả lại cho ông Nguyễn Ngọc Lâm 01 xe mô tô BKS 20B1-867.83 nhãn hiệu Yamaha, loại sirus màu xám đen, dung tích xi lanh 113, số máy E3T6E169992, số khung RLCUE1710GY114494 (đã qua sử dụng).

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.000 đồng.

(Đặc điểm các vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 117 ngày 13/11/2020 giữa Chi cục Thi hành dân sự thành phố Thái Nguyên và Công an TP Thái Nguyên).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/QH ngày 30/12/2016 quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Đàm Hùng T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước.

Án xét xử sơ thẩm công khai. Báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 629/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:629/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về