Bản án 62/2021/DS-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp hụi 

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 62/2021/DS-ST NGÀY 02/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HỤI 

Trong ngày 02 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Phú Tân, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 469/2020/TLST-DS ngày 24/8/2020 về tranh chấp “Hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 444/2020/QĐXXST- DS ngày 30 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Nguyễn Kim T, sinh năm 1984 (có mặt). Địa chỉ: Khóm 2, thị trấn C, huyện P, tỉnh C.

2. Bị đơn: Ông Trần Văn Đ, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Lương Cẩm D, sinh năm 1987 (vắng mặt). Cùng địa chỉ: Ấp B, xã K, huyện P, tỉnh C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 18 tháng 8 năm 2020 và các lời khai tại tòa nguyên đơn bà Nguyễn Kim T trình bày:

Vào ngày 20/3/2018 (âm lịch) bà Lương Cẩm D, ông Trần Văn Đ có mở dây hụi, loại hụi 2.000.000 đồng, gồm có 25 chưng, mỗi tháng khui 01 lần. Bà Nguyễn Kim T tham gia 02 chưng, bà T đóng hụi được 08 lần với số tiền 32.000.000 đồng. Đến khoảng tháng 12 năm 2018 bà D tuyên bố ngưng hụi. Tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Kim T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lương Cẩm D, ông Trần Văn Đ trả cho bà Nguyễn Kim T số tiền 32.000.000 đồng.

Tại bản tự khai ngày 01 tháng 09 năm 2020 bị đơn bà Lương Cẩm D trình bày:

Bà Lương Cẩm D thống nhất nội dung đơn khởi kiện ngày 18 tháng 8 năm 2020 của nguyên đơn bà Nguyễn Kim T nêu là đúng, bà D thừa nhận nợ bà Nguyễn Kim T số tiền 32.000.000 đồng, bà D đồng ý trả cho bà T số tiền 32.000.000 đồng.

Đối với bị đơn ông Trần Văn Đ được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông Đ vẫn vắng mặt và không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Xét về thủ tục tố tụng: Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Phú Tân, nguyên đơn khởi kiện bị đơn về việc tranh chấp “Hụi” nên Tòa án nhân dân huyện Phú Tân thụ lý giải quyết là đúng theo quy định tại Điều 26, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai đối với ông Trần Văn Đ nhưng ông Đ vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Bị đơn bà Lương Cẩm D xin vắng mặt. Căn cứ Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ, bà D là phù hợp với quy định.

[2] Xét về quan hệ pháp luật tranh chấp: Nguyên đơn bà Nguyễn Kim T khởi kiện bị đơn ông Trần Văn Đ, bà Lương Cẩm D về việc bị đơn còn nợ nguyên đơn số tiền hụi 32.000.000 đồng. Xét đây là quan hệ pháp luật tranh chấp “Hụi”.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Kim T xác định dây hụi mở ngày 20/3/2018 (âm lịch) bà Nguyễn Kim T tham gia 02 chưng, bà T đóng hụi được 08 lần với số tiền 32.000.000 đồng. Đến khoảng tháng 12 năm 2018 bà D tuyên bố ngưng hụi. Tại phiên tòa nguyên đơn bà Nguyễn Kim T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lương Cẩm D, ông Trần Văn Đ trả cho bà Nguyễn Kim T số tiền 32.000.000 đồng. Tại bản tự khai ngày 01 tháng 09 năm 2020 của bị đơn bà Lương Cẩm D thừa nhận còn nợ bà Nguyễn Kim T số tiền hụi 32.000.000 đồng và đồng ý trả cho bà Tươi số tiền 32.000.000 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, hợp đồng góp hụi giữa nguyên đơn và bị đơn là có thực tế diễn ra và các bên đều thừa nhận. Nguyên đơn yêu cầu bị đơn ông Đ, bà D trả số tiền 32.000.000 đồng. Tại phiên tòa nguyên đơn xác định theo như danh sách hụi thì chủ hụi là bà D nhưng việc bà D mở hụi ông Đ có biết và sau khi ngưng hụi thì giữa bà T và ông Đ, bà D có thỏa thuận với nhau, ông Đ hứa hẹn trả nợ cho bà T nhưng ông Đ không thực hiện theo thỏa thuận. Xét thấy tại phiên tòa nguyên đơn xác định sau khi bị đơn tuyên bố ngưng hụi thì giữa nguyên đơn và bị đơn ông Đ, bà D có thỏa thuận với nhau, ông Đ hứa hẹn trả nợ cho nguyên đơn, nhưng nguyên đơn không có chứng cứ gì chứng minh cho lời trình bày của mình. Tuy nhiên trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ đối với ông Trần Văn Đ nhưng ông Đ vẫn vắng mặt và không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy ông Đ đã thừa nhận nợ nên không có ý kiến gì. Do đó cần buộc ông Đ có trách nhiệm cùng với bà D trả tiền cho nguyên đơn là phù hợp. Từ những căn cứ nêu trên, căn cứ Điều 471 Bộ luật dân sự, nguyên đơn bà Nguyễn Kim T yêu cầu bà Lương Cẩm D, ông Trần Văn Đ trả số tiền 32.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận.

[4] Xét về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên nguyên đơn không phải chịu án phí. Bị đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 26, Điều 35, Điều 39, Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471 Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Kim T, buộc bị đơn ông Trần Văn Đ, bà Lương Cẩm D trả cho bà Nguyễn Kim T số tiền 32.000.000 đồng (Ba mươi hai triệu đồng).

Kể từ ngày bà T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu ông Đ, bà D không thi hành xong khoản tiền trên, thì phải chịu khoản tiền lãi chậm trả tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật dân sự.

Án phí dân sự sơ thẩm: Bị đơn ông Trần Văn Đ, bà Lương Cẩm D phải chịu án phí số tiền 1.600.000 đồng. Nguyên đơn bà Nguyễn Kim T không phải chịu án phí, bà T có nộp tạm ứng án phí số tiền 800.000 đồng, theo biên lai thu số 0012001 ngày 24 tháng 8 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân được hoàn lại.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án đựơc niêm yết công khai.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b, 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

297
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2021/DS-ST ngày 02/03/2021 về tranh chấp hụi 

Số hiệu:62/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:02/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về