Bản án 62/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 54/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2020 đối với:

* Bị cáo: Nguyên Thê V, sinh năm 1988 tại Nam Định:

Nơi cư trú: Xóm 12, C, xã N, huyên N, tỉnh Nam Định. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1967 và Nguyễn Thị Th, sinh năm 1969, cả hai hiện lao động tự do tại xóm 12, C, xã N, huyên N, tỉnh Nam Định; Vợ: Trần Thị Qu, sinh năm 1991, hiện làm công nhân ở xã N, con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2014, con nhỏ nhất sinh năm 2018:

- Tiền sự: Không.

- Tiền án: Ngày 27/11/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Nhân thân: Ngày 17/9/2010, bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 33 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Nguyễn Thế V bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 29/6/2020 đến ngày 02/7/2020 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- Anh Trần Văn Kh, sinh năm 1972. Địa chỉ: Đội 6, HTX Ph, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.

* Người làm chứng:

- Anh Nguyễn Văn Nh, sinh năm 1972. Địa chỉ: Phố Th, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa có mặt bị cáo; vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và người làm chứng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ ngày 29/6/2020, Nguyễn Thế V đi xe ôm từ nhà đến khu vực cầu Đ, thành phố N, tỉnh Nam Định với mục đích mua ma túy về để sử dụng. Khi đi đến khu vực cầu Đ, V gặp một người thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ, V hỏi mua 200.000 đồng tiền Heroine. Người thanh niên đồng ý, V đưa cho người thanh niên 200.000 đồng, người thanh niên nhận tiền và đưa lại cho V 01 gói Heroine, vỏ gói là giấy màu vàng. Sau khi mua được Heroine, V bỏ vào túi quần và đi xe ôm về nhà. Trên đường về nhà V dùng điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, số thuê bao 0354.789.806 của mình gọi vào số máy 0977.908.973 của Trần Văn Kh nhờ Kh mua giúp 02 bơm kim tiêm và 01 ống nước cất mang lên khu vực Nhà văn hóa phố Th xã N (V và Kh là bạn bè quen biết). Đến khoảng 07 giờ cùng ngày Kh mang 02 bơm kim tiêm và 01 ống nước cất đến khu vực Nhà văn hóa phố Th xã N gặp V. Tại đây V rủ Kh sử dụng chung ma túy, Kh đồng ý nhưng cả hai chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an huyện N bắt quả tang. Thu giữ trong túi quần trước bên phải V đang mặc 01 gói nhỏ, vỏ gói là giấy màu vàng bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (niêm phong ký hiệu M), V khai nhận đó là Heroine mua về để sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Ngoài ra còn tạm giữ của V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, số thuê bao 0354.789.806. Thu giữ của Kh 02 bơm kim tiêm, 01 ống thủy tinh LIDOCAIN HYDROCLORID bên trong có dung dịch màu trắng, đều chưa qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, số thuê bao 0977.908.973. Tổ công tác Công an huyện N đưa Nguyễn Thế V và Trần Văn Kh về trụ sở ủy ban nhân dân xã N lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thế V đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Bản kết luận giám định số 734/GĐKTHS ngày 29/6/2020 của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định, kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói nhỏ, vỏ giấy màu vàng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu M: 0,152 gam.

Bản cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 01 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo Nguyên Thê V về tội “Tàng trữ trái phép ch ất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điêu 249 Bộ luật hình sự. Tại phiên toà hôm nay đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nguyên nhân, điều kiện phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như tội danh và điều luật đã nêu; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điêu 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt Nguyên Thê V từ 21 (Hai mươi mốt) tháng tù đên 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù, Tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù tại bản án số 63/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án từ 33 (Ba mươi ba) tháng đến 39 (Ba mươi chín) tháng tù; Đề nghị miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo; Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để xử lý vật chứng; Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội để buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Tại phiên toà hôm nay qua xét hỏi và tranh luận bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu. Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo Nguyên Thê V tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các tài liệu đã được xác lập có trong hồ sơ vụ án cũng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố bị cáo ra trước phiên tòa hôm nay. Như vậy đã có đủ cơ sở xác định: Khoảng 07 giờ ngày 29/6/2020, tại khu vực nhà văn hóa phố Th, xã N, huyên N, tỉnh Nam Định, Nguyễn Thế V có hành vi tàng trữ trái phép 0,152 gam Heroine, mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện N phát hiện bắt quả tang. Hành vi của Nguyên Thê V là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chế độ quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự trị an, an toàn xã hội trong khu vực, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn hoá của dân tộc. Bị cáo là người đã thành niên có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Vì vậy việc đưa bị cáo ra xét xử công khai, lên án xử lý nghiêm minh là cần thiết nhằm góp phần vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, giữ gìn kỷ cương tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo là ngươi có nhân thân xâu đa nhiêu lân bi xư ly hinh sư vì hành vi vi phạm pháp luật. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 27/11/2019, bị cáo Nguyễn Thế V bị Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xoá án tích nên bị cáo Nguyễn Thế V bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong giai đoạn điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, Nguyên Thê V thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, tập trung cải tạo đối với bị cáo nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Ngày 27/11/2019, bị cáo Nguyễn Thế V bị Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 27/11/2019) về tội “Trộm cắp tài sản”. Như vậy tính đến ngày phạm tội mới thì bị cáo đã phạm tội trong thời gian thử thách của bản án đã cho hưởng án treo. Do đó khi quyết định hình phạt phải tổng hợp hình phạt của tội mới với phần hình phạt chưa thi hành của bản án số 63/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Toà án nhân dân huyện Tr tỉnh Nam Định để buộc bị cáo phải thi hành theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà cho thấy gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo không sở hữu tài sản có giá trị. Vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình bổ sung đối với bị cáo.

[5] Đối với người thanh niên bán ma túy cho Nguyễn Thế V ngày 29/6/2020 tại khu vực Cầu Đ, thành phố N, hiện chưa xác định được tên, tuổi, địa chỉ cụ thể, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N tiếp tục điều tra xử lý sau là phù hợp.

[6] Đối với Trần Văn Kh, ngày 29/6/2020 có hành vi mua giúp Nguyễn Thế V 02 bơm kim tiêm, 01 lọ nước cất, song Kh không biết V tàng trữ trái phép chất ma túy trên người để sử dụng nên không cấu thành tội “Không tố giác tội phạm” theo Điều 390 Bộ luật hình sự. Mặt khác việc V rủ Kh sử dụng ma túy nhưng Kh chưa thực hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N không xử lý đối với Kh là phù hợp.

[7] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 phong bì niêm phong số 734/GĐKTHS ngày 29/6/2020 (Bên trong phong bì có 0,108 gam mẫu M, cùng vỏ bao gói mẫu M) của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 bơm kim tiêm, 01 ống thủy tinh LIDOCAIN HYDROCLORID bên trong có dung dịch màu trắng, đều chưa qua sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số thuê bao 0354.789.806 thu giữ của Nguyễn Thế V không liên quan tới việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo V là phù hợp.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, số thuê bao 0977.908.973 thu giữ của Trần Văn Kh không liên quan tới hành vi phạm tội nên trả lại cho Trần Văn Kh là phù hợp.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyên Thê V phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[9] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điêu 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47, Điều 56, khoản 5 Điều 65 của Bộ luật hình sự:

Căn cứ vào Điều 106; Điều 135, Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 6, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyên Thê V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt bị cáo Nguyên Thê V 21 (Hai mươi mốt) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt 12 tháng tù tại bản án số 63/2019/HSST ngày 27/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Tr, tỉnh Nam Định. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 29 tháng 6 năm 2020.

3. Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 734/GĐKTHS ngày 29/6/2020 (Bên trong phong bì có 0,108 gam mẫu M, cùng vỏ bao gói mẫu M) của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định hoàn trả sau giám định.

- Tịch thu tiêu hủy 02 bơm kim tiêm, 01 ống thủy tinh LIDOCAIN HYDROCLORID bên trong có dung dịch màu trắng, đều chưa qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thế V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen đã qua sử dụng, số thuê bao 0354.789.806.

- Trả lại cho anh Trần Văn Kh 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, số thuê bao 0977.908.973.

Toàn bộ vật chứng của vụ án đang được quản lý tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện N theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N với Chi cục Thi hành án dân sự huyện N.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyên Thê V phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt bị cáo, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Báo cho người có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án và người được thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về