TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ C, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 62/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Vào các ngày 13 và 17 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hòa, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 68/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 10 năm 2020, đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Quang L (tên gọi khác: Bùm), sinh ngày: 01 tháng 9 năm 2001, tại: C, Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn Q, xã N, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới Th: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Đinh Thị Thu Th; vợ, con: Chưa.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2020 đến nay.
Có mặt tại phiên tòa.
2/ Lê Đ, sinh ngày 05 tháng 02 năm 1995, tại: L, Khánh Hòa; nơi cư trú:
Thôn V, xã A, huyện L, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Thợ mộc; trình độ học vấn:
10/12; dân tộc: Kinh; giới Th: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê C (đã chết) và bà Trương Thị Lệ T; vợ, con: Chưa.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại.
Có mặt tại phiên tòa.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Quang H, sinh năm 1996.
Nơi cứ trú: C7, Phạm H, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh.
Có mặt tại phiên tòa.
* Người làm chứng:
1/ Anh Nguyễn Trung T, sinh năm: 1995 Vắng mặt tại phiên tòa.
2/ Anh Đỗ Bá Q, sinh năm: 1994 Vắng mặt tại phiên tòa.
3/ Bà Nguyễn Thị D, sinh năm: 1965 Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 10 giờ 15 phút ngày 14 tháng 8 năm 2019, tổ công tác Công an phường N đang tuần tra, kiểm soát tổ dân phố H, phường N, thành phố C thì thấy trong khu vực hành lang của nhà nghỉ 71 có Đỗ Bá Q, Nguyễn Trung T và Lê Đ biểu hiện nghi vấn tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma túy nên tiến hành kiểm tra và phát hiện trong túi vải màu xanh nước biển, trên thân túi có dòng chữ “Coolpad” màu trắng của Lê Đ có 01 (một) bịch niLmàu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy tổng hợp; Công an phường N đã tiến hành lập biên bản thu giữ và niêm phong bịch ni lông nói trên (ký hiệu mẫu A). Lê Đ khai nhận số tinh thể rắn màu trắng có trong bịch niL là ma túy đá do Đ mua của Nguyễn Quang L và hiện L đang ở tại phòng số 105 của nhà nghỉ 71. Tổ công tác tiến hành kiểm tra phòng số 105 thì phát hiện Nguyễn Quang L đang ở đó.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Quang L khai nhận bị cáo là người nghiện ma túy, đã nhiều lần mua ma túy của người tên V (Cá Chẽm) (không rõ lai lịch) để sử dụng và bán cho người khác, cụ thể:
Lần 1: Khoảng 15 giờ ngày 07 tháng 8 năm 2019, Lbán 01 bịch ma túy cho Nguyễn Trung T với giá 150.000 đồng tại khu vực bãi đất trống thuộc thôn T, xã Đ, thành phố C.
Lần 2: Khoảng 14 giờ ngày 10 tháng 8 năm 2019, L bán cho Lê Đ 01 bịch ma túy với giá 200.000 đồng tại quán cà phê N thuộc thôn D, xã N, thành phố C.
Lần 3: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 13 tháng 8 năm 2019, L bán 01 bịch ma túy cho Nguyễn Trung T với giá 200.000 đồng tại phòng 105, nhà nghỉ 71, thuộc tổ dân phố H, phường N, thành phố C.
Lần 4: Khoảng 09 giờ 55 phút ngày 14 tháng 8 năm 2019, L bán 01 bịch ma túy cho Nguyễn Trung T với giá 200.000 đồng tại phòng 105, nhà nghỉ 71, thuộc tổ dân phố H, phường N, thành phố C.
Lần 5: Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 14 tháng 8 năm 2019, tại phòng 105, L bán cho Lê Đ 01 bịch ma túy với giá 500.000 đồng tại nhà nghỉ 71, thuộc tổ dân phố H, phường N, thành phố C.
Tại bản kết luận giám định số 488/GĐTP ngày 13 tháng 9 năm 2019, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận tinh thể trong mẫu ký hiệu A gửi giám định có khối lượng 0,2927 gam là ma túy, loại Methamphetamine.
Tại Bản cáo trạng số 60/CT-VKSCR-HS ngày 01 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo Nguyễn Quang L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; bị cáo Lê Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo Lê Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 91; Khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quang Ltừ 06 đến 07 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/5/2020; áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249, Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Đ từ 01 đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
* Về vật chứng và các vấn đề khác: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Quang H trình bày điện thoại di động hiệu IPHONE màu đen, số số IMEL 356708084897998 là của mình, H không biết H mượn điện thoại để sử dụng vào mục đích mua bán ma túy và yêu cầu trả lại chiếc điện thoại này.
Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Quang L và Lê Đ đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến gì về đề nghị của Đại diện viện kiểm sát; lời nói sau cùng, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định truy tố của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tố tụng: Mặc dù trong Quyết định đưa vụ án ra xét xử không có tên của anh Nguyễn Quang H, tuy nhiên sau đó Tòa án đã tiến hành triệu tập anh H đến phiên tòa tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, anh H không có ý kiến gì đối với vấn đề này, do đó Hội đồng xét xử vẫn giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Những người làm chứng Nguyễn Trung T, Đỗ Bá Q và Nguyễn Thị D vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên những người này đã có lời khai trong hồ sơ vụ án, sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, xét xử vắng mặt những người làm chứng nói trên.
[3] Về trách nhiệm hình sự: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Quang Lvà Lê Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đã thực hiện đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C, tỉnh Khánh Hòa đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với vật chứng thu giữ được và các chứng cứ khác đã được Cơ quan cảnh sát điều tra thu thập. Có đủ căn cứ kết luận:
Trong thời gian từ ngày 07/8/2019 đến ngày 14/8/2019, Nguyễn Quang L đã có hành vi bán ma túy cho Nguyễn Trung T 03 lần vào các ngày 07/8/2019, 13/8/2019 và 14/8/2019; 02 lần bán ma túy cho Lê Đ vào các ngày 10/8/2019 và 14/8/2019. Hành vi của bị cáo Nguyễn Quang L đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phần tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Đối với bị cáo Lê Đ: Ngày 14/8/2019, tại khu vực hành lang của nhà nghỉ 71, thuộc tổ dân phố H, phường N, thành phố C, Lê Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,2927 gam Methamphetamine trong túi vải màu xanh nước biển, trên thân túi có dòng chữ “Coolpad” màu trắng. Hành vi của bị cáo Lê Đ đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, phần tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố C truy tố đối với các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý các chất ma túy của Nhà nước, là khách thể được Bộ luật hình sự bảo vệ; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Bị cáo Nguyễn Quang L, sau khi phạm tội đã bỏ trốn, gây khó khăn cho quá trình điều tra và xử lý đối với các bị cáo. Vì vậy, cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội nhằm giáo dục cho các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, trở thành người có ích cho xã hội, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Quang L và Lê Đ đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; bản thân các bị cáo không có tiền án, tiền sự nên áp dụng quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ cho mỗi bị cáo một phần hình phạt để các bị cáo thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà tích cực cải tạo, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Riêng đối với bị cáo Nguyễn Quang L, tại thời điểm phạm tội chưa đủ 18 tuổi, nằm trong khoảng từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Do đó, áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự khi lượng hình đối với bị cáo.
Về hình phạt bổ sung:
- Bị cáo Nguyễn Quang L khi phạm tội chưa đủ 18 tuổi, đang bị tạm giam không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
- Bị cáo Lê Đ có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
[4] Về vật chứng:
- 0,2927 (không phẩy hai chín hai bảy) gam Methamphetamine không hoàn lại sau giám định nên không xem xét.
- 01 (một) máy tính bảng hiệu SAMSUNG màu đen, loại Galaxy Tab A, số IMEL 358525081782501/01, đây là tài sản của Nguyễn Quang L, không sử dụng vào mục đích mua bán ma túy và đã được trả lại theo biên bản ngày 18/8/2020 nên không xem xét xử lý.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu tím, có ốp nhựa dẻo trong suốt, số IMEL 860163041979233, đây là tài sản của Nguyễn Trung T sử dụng để liên lạc hàng ngày, không sử dụng chủ yếu để phục vụ cho việc tàng trái phép chất ma túy, đã được trả lại theo biên bản ngày 11/8/2020 nên không xem xét xử lý.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu đen, số số IMEL 356708084897998, đây là tài sản của Nguyễn Quang H, H không biết L mượn điện thoại của mình để sử dụng vào mục đích mua bán ma túy do đó trả lại cho Nguyễn Quang H.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu bạc, số IMEL 864212034349494, đây là tài sản của Lê Đ dùng để liên lạc hàng ngày, không sử dụng chủ yếu để phục vụ cho việc tàng trái phép chất ma túy nên trả lại cho bị cáo Lê Đ.
- Số tiền 1.500.000 đồng thu của Nguyễn Quang L, đây là tiền L có được từ việc mua bán trái phép chất ma túy, xét đây là tiền thu nhập bất chính nên tịch thu sung công quỹ nhà nước.
- 01 (một) nắp chai màu xanh bị đục 02 lỗ, 01 (một) đoạn ống thủy tinh, có một đầu hình cầu, 01 (một ) đoạn ống hút nhựa, màu trắng và 01 (một) túi vải màu xanh nước biển, trên thân túi có dòng chữ “Coolpad” màu trắng; đây là các dụng cụ để tàng trữ và sử dụng ma túy, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, có ốp nhựa màu đen, số imel: 868476034313471, 01 (một) điện thoại di động hiệu MASSTEL màu cam, số IMEL: 352120088772207 hiện nay chưa xác định được chủ sở hữu nên đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật
[5] Về án phí: Vì các bị cáo bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Về kiến nghị:
Đối với V (Cá Chẽm), chưa xác định được nhân thân lai lịch, đề nghị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiếp tục xác minh làm rõ có hay không việc bán ma túy cho Nguyễn Quang L để xử lý theo quy định của pháp luật.
[7] Về các vấn đề khác Chủ sở hữu và quản lý nhà nghỉ 71 không biết bị cáo Nguyễn Quang L sử dụng phòng 105 của nhà nghỉ để làm nơi bán ma túy nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối với Nguyễn Quang H, là chủ sở hữu điện thoại IPHONE màu đen, số số IMEL 356708084897998, H không biết Nguyễn Quang L mượn điện thoại của mình để mua bán ma túy nên không có cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Về điều luật áp dụng và hình phạt - Căn cứ vào Điểm b Khoản 2 Điều 251; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 91, Khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự; Khoản 1, Khoản 2 Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang L 06 (sáu) năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù từ ngày 16/5/2020.
- Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Xử phạt bị cáo Lê Đ 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.
2. Về vật chứng:
- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng đang gửi tại Kho bạc nhà nước thành phố C theo Giấy nộp tiền vào tài khoản số 3949.0.9041629.C0000 ngày 18/8/2020 của Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam.
- Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) nắp chai màu xanh bị đục 02 lỗ, 01 (một) đoạn ống thủy tinh, có một đầu hình cầu, 01 (một ) đoạn ống hút nhựa, màu trắng và 01 (một) túi vải màu xanh nước biển, trên thân túi có dòng chữ “Coolpad” màu trắng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C.
- Trả lại cho bị cáo Lê Đ 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu bạc, số IMEL 864212034349494 theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C.
- Trả lại cho anh Nguyễn Quang H 01 (một) điện thoại di động hiệu IPHONE màu đen, số số IMEL 356708084897998 theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27/10/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố C - 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO màu xanh, có ốp nhựa màu đen, số imel: 868476034313471, 01 (một) điện thoại di động hiệu MASSTEL màu cam, số IMEL: 352120088772207 hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.
3. Về kiến nghị:
Kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ đối tượng có tên V (Cá Chẽm) để làm rõ có hay không việc bán ma túy cho Nguyễn Quang L để xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Về án phí:
- Bị cáo Nguyễn Quang L phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo Lê Đ phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm.
Bản án 62/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 62/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cam Ranh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về