Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 19/10/2020 về tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 19/10/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ YÊU CẦU NUÔI CON

Ngày 19 tháng 10 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 164/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16/9/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 53/2020/QĐST-HNGĐ ngày 02/10/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn Chị Nguyễn Thị Thu Th - sinh năm 1995 (có mặt):

Địa chỉ: Thôn M, xã N, thị xã N1, tỉnh K.

2. Bị đơn : Anh Nguyễn Hồng S - sinh năm 1994 (vắng mặt); Địa chỉ: Ấp A, xã Đ, huyện G, tỉnh K1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 25/5/2020 và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thu Th trình bày: Tôi và anh S có tìm hiểu nhau trước được 01 năm nên đến năm 2014 chúng tôi được cha mẹ hai tổ chức đám cưới theo phong tục của địa phương, hôn nhân tự nguyện và chúng tôi có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện G, tỉnh K1 vào ngày 14/5/2015.

Sau khi kết hôn vợ chồng tôi sống hạnh phúc được khoảng 07 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng quan điểm sống, chồng lo chơi bời tôi khuyên bảo nhưng không nghe. Chúng tôi đã ly thân cách nay 03 năm. Nay, xét thấy cuộc sống hôn nhân không còn hàn gắn được nữa, vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên tôi yêu cầu Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn với chồng tôi là Nguyễn Hồng S.

Về con chung: Quá trình chung sống chúng tôi có 01 người chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A - sinh ngày 06/10/2015, hiện nay con đang sống với tôi nên tôi yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung và tôi không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Tôi xác định vợ chồng không có tài sản chung và cũng không thiếu nợ ai nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nguyện vọng: Về hôn nhân tôi xin được ly hôn với chồng tôi là Nguyễn Hoàng Sơn.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Như tôi đã trình bày ở trên, tôi không có yêu cầu gì thêm.

Đối với anh Nguyễn Hồng S trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ anh S nhiều lần nhưng anh vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang có ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được thông báo và tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định nhưng vắng mặt tại phiên tòa là không tuân thủ quy định của pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của đương sự cũng như tại phiên tòa hôm nay, đối chiếu với các quy định của pháp luật đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Thu Th được ly hôn với anh Nguyễn Hồng S. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng Thiên A - sinh ngày 06/10/2015 cho chị Th được tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Miễn xét. Về tài sản chung và nợ chung: Miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa chị Nguyễn Thị Thu Th với anh Nguyễn Hồng S là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Bị đơn anh Nguyễn Hồng S được Tòa án thông báo tìm kiếm anh trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại nơi anh có hộ khẩu thường trú theo quy định của pháp luật nhưng anh S không có mặt tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt anh S là phù hợp.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Thu Th và anh Nguyễn Hồng S kết hôn với nhau vào năm 2014, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện G, tỉnh 1 vào ngày 14/5/2015. Như vậy, Hội đồng xét xử xác định hôn nhân của chị Th và anh S là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

[3] Xét về quan hệ hôn nhân cho thấy: Dù hôn nhân của chị Th và anh S là hôn nhân tự nguyện nhưng trước khi kết hôn anh chị có tìm hiểu nhau trước nhưng chưa tìm hiểu kỹ cá tính của nhau. Vì vậy, khi xác lập cuộc sống chung vợ chồng thì lại bộc lộc ra những cá tính không phù hợp. Chị Th cho rằng do bất đồng quan điểm sống, anh S chỉ lo chơi bời và anh chị đã ly thân cách nay 03 năm. Hiện nay, anh S đã bỏ địa phương đi từ năm 2016 đến nay nhưng không biết đi đâu. Ngày 31/8/2020 và ngày 16/9/2020 Tòa án đã tiến hành hòa giải để động viên, giải thích giúp vợ chồng anh chị đoàn tụ nhưng anh S không có mặt tại Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của anh S. Xét thấy, vợ chồng anh chị đã sống ly thân với nhau đã 03 năm do anh S đã bỏ phương, mặc dù chị Th tìm kiếm nhưng đến nay vẫn không biết anh S ở đâu. Tại phiên tòa, chị Th tỏ rõ thái độ không còn tình cảm và yêu thương anh S nên cương quyết xin ly hôn với anh. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn anh chị đã trở nên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Th.

Đối với anh Nguyễn Hồng S, trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án kết hợp với chính quyền địa phương trực tiếp đến nhà anh S tống đạt các văn bản đúng theo qui định của pháp luật và thông báo cho anh S trên phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết đầy đủ các văn bản tố tụng tại nơi anh có hộ khẩu thường trú theo quy định của pháp luật nhưng anh S không có mặt tại Tòa án để làm các văn bản gửi cho Tòa án nên không có căn cứ để xem xét ý kiến của anh S. Từ đó, cho thấy anh S đã biết được nội dung yêu cầu xin ly hôn của chị Th. Do đó, HĐXX thống nhất xét xử vắng mặt chị theo qui định của pháp luật.

[4] Về con chung: Chị Th xác định chị và anh S có 01 người con chung tên Nguyễn Hoàng Thiên A - sinh ngày 06/10/2015, hiện nay cháu A đang sống cùng với chị Th nên chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Xét về yêu cầu nuôi con của chị Th thấy rằng: Chị và anh S đã ly thân cách nay đã 03 năm thì chị Th một mình nuôi dưỡng cháu Anh và cháu cũng phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Do đó, yêu cầu nuôi con của chị Th là có căn cứ, phù hợp theo quy định của pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị Th không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Anh Nguyễn Hồng S có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở anh thực hiện quyền này. Khi cần thiết, anh chị có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

[6] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th xác định chị và anh S không có tài sản chung và không thiếu nợ ai nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Tại phiên tòa sau khi nghe lời trình bày của nguyên đơn và đại diện Viện kiểm sát có quan điểm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí hôn nhân sơ thẩm là: 300.000 đồng chị Nguyễn Thị Thu Th phải nộp do chị có yêu cầu xin ly hôn nhưng chị được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp trước đây là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008940, ngày 05/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, chị Nguyễn Thị Thu Th đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm. Về chi phí đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chị Nguyễn Thị Thu Th tự nguyện nộp và đã nộp xong.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 131 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Thu Th được ly hôn với anh Nguyễn Hồng S.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Hoàng Thiên A - sinh ngày 06/10/2015 cho chị Nguyễn Thị Thu Th được tiếp tục chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Miễn xét.

Anh Nguyễn Hồng S có quyền tới lui thăm nom con chung, không ai có quyền cản trở anh thực hiện quyền này. Khi cần thiết, anh chị có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

4. Về tài sản chung và nợ chung: HĐXX miễn xét.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm là: 300.000 đồng chị Nguyễn Thị Thu Th phải nộp do chị có yêu cầu xin ly hôn nhưng chị được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp trước đây là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0008940, ngày 05/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, chị Nguyễn Thị Thu Th đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm. Về chi phí đăng thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng chị Nguyễn Thị Thu Th tự nguyện nộp và đã nộp xong.

Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án là ngày 19/10/2020. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 19/10/2020 về tranh chấp ly hôn và yêu cầu nuôi con

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về