TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA, THỈNH BẮC GIANG
BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 15/10/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 15/10/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 73/2020/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 3 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị La Thị Thúy H, sinh năm 1998. Cư trú: Tổ dân phố QT, thị trấn T, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Chỗ ở: Thôn QT1, xã DT, huyện Hiệp Hòa, Bắc Giang. (Có mặt)
- Bị đơn: Anh Nguyễn Thế M, sinh năm 1993. Cư trú: Tổ dân phố QT, thị trấn T, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. (Có mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Ngân hàng chính sách xã hội. Đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Ngọc P- Chức vụ: Phó Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội huyện Hiệp Hòa. Địa chỉ: Tổ dân phố TDD, thị trấn T, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. (Vắng mặt)
+ Bà Trần Thị H, sinh năm 1959. Cư trú: Tổ dân phố QT, thị trấn T, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện đề ngày 27/02/2020, những lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa thì nguyên đơn là chị La Thị Thúy H trình bày: Chị kết hôn với anh Nguyễn Thế M ngày 18/01/2017 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn UBND xã ĐT, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn, chị về làm dâu nhà anh M. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh M ham chơi, không chịu làm ăn. Vợ chồng có cãi nhau, đánh nhau. Chị bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 6/2019 và vợ chồng ly thân từ đó đến nay. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Thế M.
- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thế Hoàng A, sinh ngày 10/5/2017. Con chung đang ở cùng chị. Vợ chồng ly hôn chị yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, chị không yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con. Anh M yêu cầu được nuôi dưỡng con chung thì chị không đồng ý, vì con chung còn nhỏ, cần sự chăm sóc của người mẹ. Chị có công việc và thu nhập ổn định từ 9.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/tháng.
- Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về công nợ chung: Vợ chồng nợ của Ngân hàng chính xã hội 12.000.000 đồng tiền gốc. Tiền lãi được thanh toán hàng tháng. Ngân hàng yêu cầu trả số tiền gốc 12.000.000 đồng và tiền lãi thì chị đồng ý. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết chia công nợ cho mỗi người một nửa. Ngoài ra vợ chồng không nợ gì ai.
* Bị đơn là anh Nguyễn Thế M trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa:
- Về quan hệ vợ chồng: Anh kết hôn với chị La Thị Thúy H ngày 18/01/2017, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐT, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn, chị H về làm dâu nhà anh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 6/2017 thì chị H có quan hệ ngoại tình, một phần do anh ham chơi, anh có đánh chị H, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Đến cuối năm 2018 đầu năm 2019 thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh trầm trọng hơn và vợ chồng ly thân từ đó, vợ chồng không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị H yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý.
- Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thế Hoàng A, sinh ngày 10/5/2017. Con chung đang ở cùng chị H. Vợ chồng ly hôn anh yêu cầu được nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con. Hiện con chung đang đi gửi trẻ ở trường mầm non, anh không biết tên trường. Thời gian vợ chồng ly thân thì anh không cấp dưỡng nuôi con chung. Chị H yêu cầu ly hôn thì anh không đồng ý. Hiện anh làm nghề lái xe, thu nhập ổng định khoảng 16.500.000 đồng/tháng.
- Về tài sản chung: Vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Về công nợ chung: Vợ chồng nợ của Ngân hàng chính xã hội 12.000.000 đồng tiền gốc. Ngân hàng yêu cầu trả số tiền gốc 12.000.000 đồng và tiền lãi thì anh đồng ý. Anh yêu cầu chia đôi số tiền mà anh và chị H nợ của Ngân hàng.
Ngoài ra anh và chị H còn nợ của bà Trần Thị H1là mẹ đẻ của anh số tiền 15.000.000 đồng, anh yêu cầu chị H phải có trách nhiệm trả bà H1 một nửa số tiền này.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng chính sách xã hội do ông Dương Ngọc P đại diện trình bày: Căn cứ Giấy đề nghị vay vốn chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn của gia đình anh Nguyễn Thế M ngày 07/3/2018 và danh sách hộ gia đình đề nghị xin vay vốn chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn của Chủ tịch UBND xã ĐT ngày 08/3/2018 (Nay là thị trấn T). Ngày 15/3/2018, Ngân hàng chính sách xã hội huyện Hiệp Hòa đã giải ngân cho ông Nguyễn Thế M vay số tiền là 12.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 6600000712096974, lãi suất 9%/năm, thời hạn vay là 60 tháng, hạn trả nợ cuối cùng là ngày 15/3/2023. Lãi suất quá hạn là 130% lãi suất cho vay. Đến ngày 15/10/2020 số nợ gốc là 12.000.000 đồng và nợ lãi là 88.768 đồng. Nay vợ chồng ly hôn, Ngân hàng chính sách xã hội yêu cầu anh Nguyễn Thế M (vợ là La Thị Thúy H) phải có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền tạm tính đến ngày 15/10/2020 là 12.088.768 đồng (trong đó nợ gốc là 12.000.000 đồng và nợ lãi là 88.768 đồng). Do điều kiện công việc nên ông Dương Ngọc P đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt ông.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị H1trình bày: Bà có nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng bà không đến Tòa án làm việc được. Vợ chồng anh M chị H có nợ của bà số tiền 15.000.000 đồng. Nay vợ chồng ly hôn thì bà không yêu cầu vợ chồng anh M chị H trả bà mà để tự gia đình bà giải quyết. Bà đề nghị Tòa án giao con chung là cháu Nguyễn Thế Hoàng A cho anh M và gia đình bà nuôi dưỡng.
* Qua làm việc với ông Nguyễn Thế Llà bố đẻ của anh Nguyễn Thế M, ông Lâm cho biết: Anh M và chị H có tự nguyện kết hôn và đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐT, huyện Hiệp Hòa. Sau khi cưới thì chị H về chung sống cùng gia đình ông và anh M. Vợ chồng sống bình thường, hạnh phúc. Đến khoảng tháng 8/2019, thì chị H đi học trang điểm ở Hà Nội, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, có cãi nhau, chị H đã đem con về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng ly thân từ tháng 8/2019 đến nay. Ông đề nghị Tòa án hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ nếu không được thì đề nghị giải quyết theo quy định. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Nguyễn Thế Hoàng A hiện đang sinh sống cùng mẹ là chị H. Vợ chồng ly hôn đề nghị Tòa án giao con chung cho anh M nuôi dưỡng. Anh M làm nghề lái xe, đi làm không tH xuyên về nhà, mỗi tháng về một lần. Về tài sản chung: Vợ chồng không có. Về công nợ: Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với khoản nợ mà vợ chồng chị H anh M nợ vợ chồng ông mà để gia đình tự giải quyết.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án.
- Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 51; Điều 55; Điều 81; Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1, Về quan hệ tình cảm: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị La Thị Thúy H và anh Nguyễn Thế M.
2, Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thế Hoàng A, sinh ngày 10/5/2017 cho chị La Thị Thúy H nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.
3, Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
4, Về công nợ chung: Buộc chị La Thị Thúy H và anh Nguyễn Thế M mỗi người phải trả cho Ngân hàng chính sách xã hội số tiền tạm tính đến ngày 15/10/2020 là 6.044.384 đồng theo hợp đồng tín dụng số 6600000712096974 ngày 15/3/2018.
5, Về án phí: Chị H và anh M phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]- Về việc vắng mặt đương sự tại phiên tòa: Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng chính sách xã hội do ông Dương Ngọc P đại diện xin vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và theo quy định tại các Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục vắng mặt đối với ông P.
[2]- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị La Thị Thúy H yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Thế M và yêu cầu giải quyết con chung thì xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là Ngân hàng chính sách xã hội yêu cầu anh Nguyễn Thế M (Có vợ là La Thị Thúy H) trả số tiền tính đến ngày 15/10/2020 là 12.88.768 đồng thì xác định đây là "Tranh chấp hợp đồng tín dụng" theo quy định tại Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền được quy định tại các Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3]- Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
[3.1]- Về quan hệ tình cảm: Chị La Thị Thúy H và anh Nguyễn Thế M kết hôn ngày 18/01/2017, có đăng ký kết hôn tại UBND xã ĐT (nay là thị trấn T), huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Hôn nhân tự nguyện, không vi phạm các điều kiện cấm kết hôn, là hôn nhân hợp pháp (Theo Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình). Theo lời trình bày của các đương sự thì xác định được trong quá trình chung sống, vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Vợ chồng đã ly thân, không còn chung sống với nhau. Xét thấy tình trạng hôn nhân đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Chị H yêu cầu ly hôn, anh M đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H, nên cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị H và anh M theo Điều 55 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3.2]- Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thế Hoàng A, sinh ngày 10/5/2017. Vợ chồng ly hôn cả chị H và anh Manh đều yêu cầu được nuôi dưỡng con chung. Mặc dù con chung trên 36 tháng tuổi nhưng vẫn còn nhỏ, cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ. Để đảm bảo cho cháu có cuộc sống ổn định, phát triển bình thường. Do vậy, chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là có căn cứ và cần được chấp nhận, cần giao con chung là Nguyễn Thế Hoàng A, sinh ngày 10/5/2017cho chị H nuôi dưỡng theo quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con chị H không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.
[4]- Về tài sản chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.
[5]- Về yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng chính sách xã hội: Theo lời trình bày của đại diện Ngân hàng chính sách xã hội, nguyên đơn, bị đơn và các tài liệu có trong hồ sơ xác định anh Nguyễn Thế M và chị La Thị Thúy H có vay của Ngân hàng chính sách xã hội chi nhánh Hiệp Hòa số tiền 12.000.000 đồng theo hợp đồng tín dụng số 6600000712096974 ngày 15/3/2018, lãi suất 9%/năm, thời hạn vay là 60 tháng, hạn trả nợ cuối cùng là ngày 15/3/2023. Lãi suất quá hạn là 130% lãi suất cho vay. Cả anh M và chị H xác định đây là công nợ chung của vợ chồng. Nay anh M chị H giải quyết ly hôn tại Tòa án, Ngân hàng yêu cầu anh M trả số tiền gốc và lãi tạm tính đến ngày 15/10/2020 là 12.088.768 đồng (trong đó nợ gốc là 12.000.000 đồng và nợ lãi là 88.768 đồng). Anh M và chị H đồng ý trả nợ theo yêu cầu của Ngân hàng. Do vậy, việc Ngân hàng yêu cầu anh M (vợ là chị H) trả số tiền tạm tính đến ngày 15/10/2020 là 12.088.768 đồng (trong đó nợ gốc là 12.000.000 đồng và nợ lãi là 88.768 đồng) là có căn cứ và cần được chấp nhận. Cần buộc anh M và chị H cùng liên đới thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng, cụ thể mỗi người phải trả cho Ngân hàng số tiền 6.044.384 đồng (trong đó tiền gốc là 6.000.000 đồng, tiền lãi là 44.384 đồng) theo quy định tại Điều 463, Điều 465, Điều 466, Điều 470 của Bộ luật dân sự; Điều 27 và Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình.
[6]- Bà Trần Thị H1xác định vợ chồng chị H anh M nợ bà số tiền 15.000.000 đồng. Anh M yêu cầu giải quyết chia công nợ này. Nhưng bà H1 không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết. Sau này bà H1 có yêu cầu thì sẽ được xem xét giải quyết bằng một vụ án dân sự khác.
[7]- Về án phí: Chị La Thị Thúy H và anh Nguyễn Thế M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 55; Điều 57; Điều 81; Điều 82, Điều 83, Điều 27 và Điều 37 của Luật hôn nhân và gia đình. Điều 463, Điều 465, Điều 466, Điều 470 của Bộ luật dân sự. Điều 26, Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147; Điều 227, Điều 228, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử:
1. Về quan hệ tình cảm: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị La Thị Thúy H và anh Nguyễn Thế M.
2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thế Hoàng A, sinh ngày 10/5/2017 cho chị La Thị Thúy H nuôi dưỡng.
Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con sau khi ly hôn không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
3. Về công nợ chung: Buộc chị La Thị Thúy H và anh Nguyễn Thế M mỗi người phải trả cho Ngân hàng chính sách xã hội số tiền tạm tính đến ngày 15/10/2020 là 6.044.384 đồng (trong đó tiền gốc là 6.000.000 đồng, tiền lãi là 44.384 đồng) theo hợp đồng tín dụng số 6600000712096974 ngày 15/3/2018.
4. Về án phí:
- Chị La Thị Thúy H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch (án phí ly hôn) và phải chịu 302.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số AA/2018/0003646 ngày 10/3/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Chị H còn phải nộp 302.000 đồng.
- Anh Nguyễn Thế M phải chịu 302.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.
6. Về nghĩa vụ chậm thi hành án: Kể từ ngày tiếp theo ngày 15/10/2020, người phải thi hành án tiếp tục chịu khoản tiền lãi của số tiền nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng số 6600000712096974 ngày 15/3/2018 cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc. Trường hợp trong Hợp đồng tín dụng, các bên có thoả thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà người phải thi hành án phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Toà án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
7. Về hướng dẫn thi hành án dân sự: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 15/10/2020 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung
Số hiệu: | 62/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/10/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về