Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 03/12/2020 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC NINH – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 03/12/2020 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 03/12/2020 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 328/2020/TLST- HNGĐ ngày 09/10/2020 về việc “Xin ly hôn và thay đổi người trực tiếp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2020/QĐXXST - HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Minh L - sinh năm: 1987 Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước.

Chỗ ở hiện nay: Tổ 1, ấp 6, xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước

Bị đơn: Ông Nguyễn Thái V – sinh năm: 1983 Địa chỉ: ấp H, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước (Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Minh L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông Nguyễn Thái V tự nguyện chung sống năm 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước. Đến năm 2011, vợ chồng ly hôn theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự số 61/2011/QĐST-HNGĐ ngày 09/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh. Năm 2013, bà L và ông V chung sống lại nhưng không đăng ký kết hôn. Đến năm 2020 thì tiếp tục phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau. Nay bà L xin ly hôn với ông V.

Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 09/02/2008 và Nguyễn Thiện N, sinh ngày 29/01/2016. Đối với con tên Nguyễn Ngọc T đã được giao cho bà L nuôi theo Quyết định số 61/2011/QĐST-HNGĐ ngày 09/6/2011, tuy nhiên hiện nay cháu T ở với ông V nên bà L đồng ý thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cháu T cho ông V nuôi. Bà L xin được nuôi cháu Nguyễn Thiện N, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Bà L và ông V không nợ ai và không ai nợ lại.

Bị đơn ông Nguyễn Thái V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông V thống nhất lời trình bày của bà L về quan hệ hôn nhân, thời gian chung sống, về thời gian mâu thuẫn và nguyên nhân mâu thuẫn. Nay bà L xin ly hôn thì ông V đồng ý.

Về con chung: Có 02 con tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 09/02/2008 và Nguyễn Thiện N, sinh ngày 29/01/2016. Đối với con tên Nguyễn Ngọc T đã được giao cho bà L nuôi theo Quyết định số 61/2011/QĐST-HNGĐ ngày 09/6/2011, tuy nhiên hiện nay cháu T ở với ông V, bà L thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cháu T cho ông V nuôi, còn cháu N giao cho bà L nuôi, không bên nào cấp dưỡng nuôi con thì ông V đồng ý.

Về tài sản: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Bà L và ông V không nợ ai và không ai nợ lại.

Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lộc Ninh:

- Về tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền, đúng quy định pháp luật, xác định đúng và đầy đủ tư cách đương sự. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký tuân thủ quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Minh L.

Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận bà Nguyễn Thị Minh L và ông Nguyễn Thái V là vợ chồng.

Về con chung: Giao con tên Nguyễn Thiện N, sinh ngày 29/01/2016 cho bà L nuôi. Thay đổi người trực tiếp nuôi con: Giao con tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 09/02/2008 cho ông V nuôi, không bên nào cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Bà L, ông V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết Về nợ: Không có nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: [1.]. Về tố tụng:

Bà Nguyễn Thị Minh L có đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Thái V nên vụ án được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Ông Nguyễn Thái V có hộ khẩu tại xã L, huyện L nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh được quy định tại khoản 1 Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Minh L và ông Nguyễn Thái V chung sống với nhau năm 2006, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện B, tỉnh Bình Phước. Đến năm 2011, vợ chồng ly hôn theo quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự số 61/2011/QĐST-HNGĐ ngày 09/6/2011 của Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh. Năm 2013 bà L và ông V chung sống lại nhưng không đăng ký kết hôn. Bà L và ông V sống hòa thuận đến năm 2020 thì tiếp tục phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, thường xuyên cãi nhau. Nay bà L xin ly hôn với ông V. Xét thấy năm 2013 bà L ông V sống chung lại, tuy có đủ điều kiện nhưng vẫn không đăng ký kết hôn. Tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân – gia đình năm 2014 quy định “Nam, nữ có điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng…”. Như vậy việc bà L và ông V chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn là vi phạm khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân – gia đình. Tại khoản 2 điều 53 Luật Hôn nhân – gia đình quy định: “Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này…”. Vì vậy Hội đồng xét xử không công nhận bà Nguyễn Thị Minh L và ông Nguyễn Thái V là vợ chồng.

[2.2].Về con chung: Bà L và ông V có hai con chung tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 09/02/2008 và Nguyễn Thiện N, sinh ngày 29/01/2016. Đối với con tên Nguyễn Ngọc T đã được giao cho bà L nuôi theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự số 61/2011/QĐST-HNGĐ ngày 09/6/2011, tuy nhiên hiện nay cháu T sống với ông V. Bà L và ông V thống nhất thay đổi người trực tiếp nuôi con. Ngoài ra, cháu T có nguyện vọng ở với ông V nên cần giao cháu T cho ông V trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu N hiện đang ở với bà L, bà L ông V thống nhất giao cháu N cho bà L nuôi, không bên nào cấp dưỡng nuôi con nên cần ghi nhận.

[2.3].Về tài sản chung: Bà L và ông V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4].Về nợ: Bà L và ông V không nợ ai, không ai nợ lại.

[3]. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát phù hợp nhận định của Tòa án nên chấp nhận.

[4].Về án phí: Căn cứ khoản 4 điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy bà L phải chịu số tiền án phí hôn nhân sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: - Điều 39 Bộ luật dân sự năm 2015 - Khoản 1 Điều 14, Điều 51, Điều 53, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Minh L.

Tuyên bố: Không công nhận bà Nguyễn Thị Minh L và ông Nguyễn Thái V là vợ chồng.

Về con chung: Bà L nuôi con tên Nguyễn Thiện N, sinh ngày 29/01/2016. Ông V nuôi con tên Nguyễn Ngọc T, sinh ngày 09/02/2008. Không bên nào cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Về tài sản chung: Bà L và ông V tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ: Không có.

Về án phí: Bà L chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Lộc Ninh theo biên lai thu tiền số 001294 ngày 09/10/2020.

Nguyên đơn, bị đơn có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 03/12/2020 về xin ly hôn

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lộc Ninh - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về