Bản án 62/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ QUỐC, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 62/2019/HS-ST NGÀY 20/06/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC

Trong ngày 20 tháng 6 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXXST-HS ngày 22/5/2019 đối với bị cáo:

Phạm Minh T, sinh năm 1991, tại: P Q, Kiên Giang; Nơi cư trú: khu phố A, thị trấn D Đ, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm M và bà Nguyễn Thị N; Vợ: Ngô Thị Thanh T; Tiền án, tiền sự: không

- Bị hại: Phan Hồ Minh Đ, sinh năm 1972 (vắng mặt)

Địa chỉ: tổ 2, ấp C, xã C C, huyện P Q, Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 06 năm 2018 Phạm Minh T cần tiền để điều trị bệnh cho con bị u não nên T nảy sinh ý định tìm người làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đi cầm cố. T lên mạng xã hội và tìm được người tên Lâm Chí K, nơi ĐKTT: V H, V N, K H, hiện đang sinh sống tại thành phố H C M là người làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. T và K thỏa thuận K sẽ làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với giá là 18.000.000đ nhưng T phải chuyển trước cho K 5.000.000đ, số còn lại giao đủ khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giấy giả). Sau khi thỏa thuận xong T gửi cho K qua zalo hình ảnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV540430, thửa đất số 69, tờ bản đồ số 58, diện tích 102, 1m2, tọa lạc tại khu phố 3, thị trấn D Đ tên Phạm Minh T để K lấy những thông tin này làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho T, sau đó T đến ngân hàng Techcombank gửi cho K 5.000.000đ. Sau khi K làm xong giấy tờ,T nhờ Võ Tuấn Q là bạn của T ở thành phố H C M đem 13.000.000đ đến điểm hẹn giao tiền cho K (Q không biết T nhờ người làm giấy tờ giả). Sau khi trả tiền xong, Q gửi giấy tờ đất về cho T. Khi nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, T mang đến tiệm cầm đồ T G do ông Tạ Quang T làm chủ ở khu phố A, D Đ cầm cố 100.000.000đ với lãi suất 6% trên tháng. Đến ngày 11/06/2018 T liên hệ với ông Phan Hồ Minh Đ để thế chấp giấy tờ đất giả vay 200.000.000đ thì ông Đ đồng ý cho vay với lãi suất 03% một tháng. Đến khoảng 15 giờ ngày 03/7/2018 ông Đ đưa trước cho T 100.000.000đ để T đi chuộc lại giấy tờ đất đã cầm cố tại tiệm cầm đồ T G. Đến khoảng 08 giờ ngày 04/07/2018 T và ông Đ đến phòng Công chứng Phú Quốc số 183 đường 30/4, khu phố C, D Đ, P Q để làm hợp đồng vay mượn tài sản để nhận 100.000.000đ còn lại. Tại đây, Công chứng viên đã phát hiện giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của T là giả nên đã trình báo cho Công an.

* Tang vật thu giữ: 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BV 540430, mang tên Phạm Minh T, sinh năm: 1991, CMND số: 371570234, địa chỉ thường trú: khu phố A, thị trấn D Đ, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang.

* Tại bản kết luận giám định số 593/KL-KTHS ngày 01/8/2018 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Kiên Giang kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BV540430 đứng tên Phạm Minh T là tài liệu giả được in bằng phương pháp in màu điện tử.

Bản cáo trạng số: 53/CT–VKSPQ ngày 22 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố bị cáo Phạm Minh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự  2015và tội “ làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm đ khoản 2 Điều 341 BLHS năm 2015.

Tại phiên toà Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận đã kết luận hành vi của bị cáo Phạm Minh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự và tội “ làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm đ khoản 2 Điều 341 BLHS năm 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm s, b khoản 1 và 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù.

Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt đối với bị cáo

Đề nghị áp dụng Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu huỷ 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BV 540430, mang tên Phạm Minh T, sinh năm: 1991, CMND số: 371570234, địa chỉ thường trú: khu phố A, thị trấn D Đ, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Phan Hồ Minh Đ không yêu cầu bồi thường thêm, đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phú Quốc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá chứng cứ: vào tháng 06/2018 Phạm Minh T đã thuê Lưu Chí Kh ở thành phố H C M làm giả giấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của mình với giá 18.000.000đ. Sau khi có giấy T liên hệ với ông Phan Hồ Minh Đ để thế chấp vay số tiền 200.000.000đ với lãi suất 03% một tháng. Vào 08 giờ ngày 04/07/2018 T và Đ đến phòng Công chứng Phú Quốc số 183 đường 30/4, khu phố 1, D Đ làm hợp đồng vay tài sản thì bị phát hiện.

Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai nhận tại cơ quan điều tra, người bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc đã truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự và tội “làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm đ khoản 2 Điều 341 BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, nhận thức được hành vi làm giả giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật xâm phạm đến hoạt động đúng đắn bình thường của các cơ quan Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính. Nhưng cần tiền để điều trị bệnh cho con mà bị cáo bất chấp pháp luật cố ý lao vào con đường phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an và gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thật thà thai báo cho cơ quan điều tra về hành vi phạm tội của mình thể hiện thái độ ăn năn hối cải đối với hành vi của mình gây ra nên đã bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại, và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt thấp nhất cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 và 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về xử lý vật chứng: Xét việc đề nghị tịch thu tiêu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BV 540430, mang tên Phạm Minh T, sinh năm: 1991, CMND số: 371570234, địa chỉ thường trú: khu phố A, thị trấn D Đ, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phú Quốc. Hội đồng xét xử xét thấy không cần tịch thu tiêu hủy vì đây là chứng cứ trong hồ sơ vụ án cần lưu giữ tại hồ sơ là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Phan Hồ Minh Đ đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường thêm Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát: Tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, trách nhiệm dân sự mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Minh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “ làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”.

2. Xử phạt: Phạm Minh T 06 (sáu) tháng tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 06 (sáu) tháng tù về tội “làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”.

Căn cứ Điều 55 Bộ luật hình sự buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội danh là 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành hình phạt tù.

3.Về xử lý vật chứng: Lưu giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số BV 540430, mang tên Phạm Minh T, sinh năm: 1991, CMND số: 371570234, địa chỉ thường trú: khu phố A, thị trấn D Đ, huyện P Q, tỉnh Kiên Giang tại hồ sơ vụ án.

4.Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Phan Hồ Minh Đ đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì nên đồng xét xử miễn xét.

5. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt nên có quyền kháng cáo trong hạn 15 kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết tại nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

400
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HS-ST ngày 20/06/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức

Số hiệu:62/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phú Quốc - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về