Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 13/12/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VIỆT YÊN, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 13/12/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Trong các ngày 10, 13/12/2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Việt Yên xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số: 222/2019/TLST-HNGĐ ngày 09/7/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06/11/2019, Quyết định hoãn phiên toà số 27/2019/QĐST-HNGĐ ngày 20/11/2019 và Thông báo về việc tạm ngừng phiên toà số 30/2019/TB-TA ngày 10/12/2019, giữa các đương sự:

-Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm 1995 (Có mặt).

Nơi ĐKHKTT: Thôn Q, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

Nơi ở hiện nay: Thôn L, xã C, huyện D, tỉnh Hà Nam.

-Bị đơn: Anh Nguyễn Trọng C, sinh năm 1994 (Có mặt).

Nơi cư trú: Thôn Q, xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn – Chị Trần Thị N trình bày:

Về quan hệ vợ chồng: Chị và anh Nguyễn Trọng C kết hôn với nhau ngày 25/7/2016 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện V. Trước khi cưới hai vợ chồng chị có được tự do tìm hiểu. Sau khi tổ chức hôn lễ theo phong tục địa phương, chị về làm dâu gia đình Anh C ngay, vợ chồng chung sống cùng bố mẹ Anh C. Cuộc sống vợ chồng chị hạnh phúc từ khi kết hôn đến khoảng tháng 3/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chị phát hiện Anh C có nhắn tin, liên lạc với người phụ nữ khác, vợ chồng thường xuyên cãi vã, Anh C không quan tâm gì bên nhà vợ, không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con, hiện nay Anh C đã nghỉ việc chỉ ở nhà chơi Game trên điện thoại. Chị đã nhiều lần khuyên ngăn nhưng Anh C không thay đổi. Đến nay chị xác định vợ chồng chị không thể đoàn tụ được, tình cảm vợ chồng không cải thiện hơn nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với Anh C.

Về con chung: Chị N xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 19/11/2016. Hiện nay cháu Đ đang ở cùng vợ chồng chị và bố mẹ Anh C, chị có nguyện vọng được nuôi cháu Nguyễn Trọng Đ vì hiện nay cháu Đ còn nhỏ và chị xác định có đủ khả năng và điều kiện để nuôi cháu Đ. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ, ruộng đất: Chị N xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của bị đơn có trong hồ sơ - Anh Nguyễn Trọng C trình bày như sau:

Về quan hệ vợ chồng: Anh và Chị Trần Thị N kết hôn với nhau ngày 25/7/2016 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Q, huyện V. Trước khi cưới hai vợ chồng có được tự do tìm hiểu nhau. Sau khi cưới Chị N về làm dâu gia đình nhà anh ngay, vợ chồng chung sống cùng với bố mẹ anh. Cuộc sống vợ chồng anh hạnh phúc từ khi kết hôn đến khoảng tháng 7/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do anh phát hiện Chị N đã có quan hệ bất chính với người đàn ông khác. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn, Chị N xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Vợ chồng anh có 01 con chung là cháu Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 19/11/2016. Hiện nay cháu Đ đang ở cùng vợ chồng và bố mẹ anh. Ly hôn, anh có nguyện vọng được nuôi cháu Đ. Anh xác định có đủ khả năng và điều kiện để nuôi cháu Anh. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ, ruộng đất: Anh C xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn – Chị N vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện của mình. Về quan hệ vợ chồng chị xin ly hôn với Anh C. Về con chung, chị đề nghị được nuôi con chung của vợ chồng là cháu Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 19/11/2016 vì chị có đủ khả năng và điều kiện chăm sóc cháu Đ. Chị không yêu cầu Anh C phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ngoài ra, tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác chị không yêu cầu toà án giải quyết. Anh Nguyễn Trọng C trình bày: Về quan hệ vợ chồng anh đồng ý ly hôn với Chị N.

Về con chung, anh đề nghị nuôi con chung của vợ chồng là cháu Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 19/11/2016 vì hiện nay anh làm ở Công ty gần nhà, cháu Đ đang học mẫu giáo ở trường gần nhà và anh có khả năng, điều kiện để nuôi cháu Đ. Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh không yêu cầu Chị N phải góp cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung, công nợ chung, ruộng canh tác anh không yêu cầu toà án giải quyết.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Việt Yên phát biểu ý kiến về việc tuân thủ pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật.

Về ý kiến giải quyết vụ án:

Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 BLTTDS năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Trần Thị N được ly hôn Anh Nguyễn Trọng C.

Về con chung: Giao Anh Nguyễn Trọng C được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 19/11/2016. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Chị N có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở Chị N thực hiện quyền này.

Án phí: Chị N phải chịu 300.000 đồng án phí DSST nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Sau khi nghiên cứu hồ sơ và thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Việc khởi kiện của Chị Trần Thị N với Anh Nguyễn Trọng C thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ vợ chồng: Chị N và Anh C đều trình bày trong hồ sơ anh chị có đăng ký kết hôn vào ngày 25/7/2016 tại UBND xã Q, huyện V, tỉnh Bắc Giang. Chị N cũng đã cung cấp được giấy chứng nhận kết hôn. Như vậy hôn nhân của Chị N và Anh C là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bản thân Chị N và Anh C đều xác định vợ chồng sống không còn tình cảm, không ai còn quan tâm tới ai. Nay Chị N xin ly hôn, Anh C đồng ý ly hôn. Việc đồng ý ly hôn của Anh C là hoàn toàn tự nguyện không bị ép buộc gì. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của Chị N. [3] Về con chung: Vợ chồng Chị N, Anh C có 01 con chung là cháu Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 19/11/2016. Ly hôn, Chị N Anh C đều có nguyện vọng được nuôi dưỡng cháu Đ. Hội đồng xét xử xét thấy: Cháu Đ từ nhỏ vẫn sống cùng Anh C và bố mẹ Anh C. Qua xác minh tại địa phương và trường mầm non nơi cháu đang đang sinh sống, học tập thì thấy Anh C hiện đang đi làm công ty, Anh C không phải là đối tượng ăn chơi, lêu lổng và cháu Đ vẫn phát triển bình thường về thể chất, trí tuệ. Anh C và gia đình Anh C vẫn đóng tiền học cho cháu Đ, chu cấp đầy đủ và đưa đón cháu Đ đúng thời gian quy định. Bố mẹ Anh C chỉ có một mình anh là con trai. Trong khi đó Chị N đã bỏ về quê, từ khi bỏ đi chị không quan tâm, chăm nom gì đến cháu Đ. Chị cũng làm công ty nhưng ở cách nhà khoảng 10km và chị đang phải ở nhờ bố mẹ đẻ.

Do vậy cần giao cháu Đ cho Anh C nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung, Chị N và Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này. Chị N có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở Chị N thực hiện quyền này.

[4] Về tài sản chung, công nợ, ruộng đất: Chị N, Anh C đều không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, Chị N phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, cần áp dụng các Điều 271; 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 để tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

Về quan hệ vợ chồng: Chị Trần Thị N được ly hôn Anh Nguyễn Trọng C.

Về con chung: Giao anh Nguyễn Ngọc Cảnh được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của vợ chồng là cháu Nguyễn Trọng Đ, sinh ngày 19/11/2016. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung Chị N, Anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị Trần Thị N có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở Chị N thực hiện quyền này.

Về án phí: Chị Trần Thị N phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng theo biên lai số AA/2012/05488 ngày 09/7/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Việt Yên. Xác nhận Chị N đã nộp đủ án phí DSST.

Báo cho các đương sự có mặt biết thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

197
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 13/12/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Việt Yên - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về