TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 62/2018/HNGĐ-ST NGÀY 21/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON
Ngày 21/5/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang tiến hành mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 1371/2017/HNGĐ-ST ngày 24/11/2017 về việc Tranh chấp về ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/QĐST-HNGĐ ngày 16/4/2018, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Võ Thị L – sinh năm 1992
Nơi ĐKHKTT: 31 V, phường V, Nha Trang, Khánh Hòa.
Nơi ở: 13/2 K, phường P, Nha Trang, Khánh Hòa. Vắng mặt tại phiên tòa.
Bị đơn: Ông Đinh Ngọc H – sinh năm 1987
Nơi cư trú: 31 V, phường V, Nha Trang, Khánh Hòa . Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo đơn khởi kiện đề ngày 25/10/2017, bản tự khai, cũng như tại biên bản hòa giải, nguyên đơn bà Võ Thị L trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Bà và ông Đinh Ngọc H tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa năm 2010. Quá trình chung sống thời gian đầu có hạnh phúc, nhưng sau này cuộc sống vợ chồng bà thường xảy ra mâu thuẫn, bất hòa, do không cùng quan điểm, không còn hợp tính nhau nên đời sống chung không còn hạnh phúc. Ông H không quan tâm chăm lo hạnh phúc gia đình, hay đánh đập bà, đã nhiều lần bà cố gắng chịu đựng và khuyên bảo nhưng không có kết quả, vì vậy bà và ông H đã sống ly thân với với nhau đã gần 02 năm. Đến nay, tình cảm vợ chồng giữa bà và ông H không còn, nên bà yêu cầu được ly hôn với ông H để ổn định cuộc sống.
Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Bà và ông H có 02 con chung là cháu Đinh Ngọc G, sinh ngày 22/8/2010 và Đinh Ngọc H, sinh ngày 10/01/2014. Sau khi ly hôn bà yêu cầu được trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Đinh Ngọc H được biết, và trong quá trình giải quyết vụ án đã tiến hành triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng ông H vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai cũng như không thể tiến hành hòa giải được.
* Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:
Về quan hệ hôn nhân: Bà L và ông H tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp. Yêu cầu của bà Võ Thị L xin ly hôn với ông Đinh Ngọc H là có cơ sở, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, bà Võ Thị L được ly hôn với ông Đinh Ngọc H.
Về con chung và cấp dưỡng nuôi con chung: Nguyện vọng được nuôi dưỡng hai con chung Đinh Ngọc G, sinh ngày 22/8/2010 và Đinh Ngọc H, sinh ngày 10/01/2014 của bà L là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật vì cháu H và cháu G còn nhỏ nên cần được sự quan tâm, chăm sóc của mẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử giao hai con chung cho bà L trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành; ghi nhận sự tự nguyện của bà L về việc không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Bà Võ Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Võ Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn ông Đinh Ngọc H đã được Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang tiến hành tống đạt hợp lệ tất cả các văn bản tố tụng của Tòa án, nhưng ông H đều vắng mặt không có lý do, và lần thứ hai ông H vắng mặt không có lý do tại phiên tòa sơ thẩm. Vì vậy, căn cứ vào điểm a, b khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Võ Thị L và ông Đinh Ngọc H tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn, được Ủy ban nhân dân phường V, Nha Trang, Khánh Hòa cấp giấy chứng nhận kết hôn số 155, quyển số 01/2010 ngày 30/12/2010 nên đây là hôn nhân hợp pháp.
Căn cứ vào lời trình bày của bà L về mâu thuẫn gia đình và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ chồng có nghĩa vụ chung sống với nhau, có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Việc bà L và ông H không sống chung với nhau gần hai năm nay, không ai quan tâm đến ai là đã có sự vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho tình cảm vợ chồng không được hàn gắn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng. Đồng thời quá trình giải quyết vụ án, tòa án đã tiến hành thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông H, tại thông báo có nêu rõ yêu cầu khởi kiện và những tài liệu chứng cứ mà bà L đã giao nộp cho Tòa án, nhiều lần triệu tập ông H đến Tòa án làm việc để ông trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu ly hôn của bà L, cũng như thông báo để ông H đến tòa án tham gia phiên hòa giải, nhưng ông đều vắng mặt không có lý do. Việc ông H không đến Tòa án để làm việc, để tham gia hòa giải và tham gia phiên tòa sơ thẩm chứng tỏ ông không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình.
Như vậy lời khai của bà L về việc gia đình bà có mâu thuẫn, không có hạnh phúc gia đình là có cơ sở. Hôn nhân của ông bà đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà L.
[3] Về con chung: Bà L và ông H có 02 con chung là Đinh Ngọc G, sinh ngày 22/8/2010 và Đinh Ngọc H, sinh ngày 10/01/2014. Cháu H còn nhỏ nên rất cần sự quan tâm, chăm sóc của người mẹ; cháu G đã trên 7 tuổi, có nguyện vọng được sống chung với mẹ. Vì vậy, yêu cầu của bà L được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cả hai con chung cho đến tuổi trưởng thành là chính đáng, phù hợp với ý chí, nguyện vọng của con và đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của các con theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của bà L.
[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà L không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về tài sản chung, nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Về án phí: Bà L phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 28, 35, 273, 238 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;
- Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, bà Võ Thị L được ly hôn với ông Đinh Ngọc H.
2. Giao hai con chung: Đinh Ngọc G, sinh ngày 22/8/2010 và Đinh Ngọc H, sinh ngày 10/01/2014 cho bà Võ Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi tuổi trưởng thành. Ông H không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà L không yêu cầu.
Ông H có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở, đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi. Vì lợi ích của con, khi cần thiết ông H và bà L có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi việc nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.
3. Bà Võ Thị L phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0007895 ngày 23/11/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang. Bà Võ Thị L đã nộp đủ án phí.
4. Bà Võ Thị L và ông Đinh Ngọc H được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 21/05/2018 về tranh chấp về ly hôn, nuôi con
Số hiệu: | 62/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/05/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về