Bản án 62/2017/HNGĐ-ST ngày 05/10/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 62/2017/HNGĐ-ST NGÀY 05/10/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 05 tháng 10 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 173/2017/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2017. Về việc tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2017/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 9 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2017/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1985;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Duy H, sinh năm 1982;

Cùng đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn G, xã H, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

Chị T có mặt, anh H vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đề ngày 11 tháng 7 năm 2017, tại bản tự khai và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày:

Chị và anh Nguyễn Duy H kết hôn với nhau tự nguyện, được sự đồng ý của hai bên gia đình và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng vào ngày 11 tháng 02 năm 2006. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được 07 năm thì phát sinh rất nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống, vợ chồng không hợp nhau về tính cách, không có tiếng nói chung trong quan hệ tình cảm tâm sinh lý, cùng với việc anh H mải mê chơi bời, cờ bạc không quan tâm đến gia đình vợ con, nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã và xô xát với nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình và địa phương khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, hiện vợ chồng đã sống ly thân đến nay được 02 năm, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Duy H.

Về con chung: Chị và anh H có 02 con chung là Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/11/2006 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 19/3/2014. Ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu K còn anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu A vì hiện tại cháu Khang còn nhỏ và đang sinh sống cùng với chị, hơn nữa theo nguyện vọng của cháu An muốn được ở cùng với anh H. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị xin tự giải quyết với anh H.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Tại biên bản chi lời khai ngày 07 tháng 8 năm 2017, bị đơn anh Nguyễn Duy H khai nhận:

Anh xác nhận về thời gian, điều kiện kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như nội dung chị T trình bày là đúng. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian đầu thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, chị T không thông cảm và quan tâm đến công việc của anh nên vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn cãi vã, xúc phạm và xô xát với nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân đến nay được 02 năm, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Tuy nhiên, anh không đồng ý ly hôn vì con anh còn nhỏ cần có sự chăm sóc của cả bố và mẹ, hơn nữa anh vẫn còn tình cảm với chị T.

Về con chung: Anh và chị T có 02 con chung là Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/11/2006 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 19/3/2014. Trường hợp ly hôn anh đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con chung anh xin tự giải quyết với chị T.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xác định quan hệ tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, về thẩm quyền đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử xét những nội dung sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T xin ly hôn với anh Nguyễn Duy H.

+ Về con chung: Đề nghị giao con chung là Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/11/2006 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung là Nguyễn Duy K, sinh ngày 19/3/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị T và anh H xin tự giải quyết nên không đặt ra để giải quyết.

+ Về tài sản chung: Không yêu cầu, không xét.

+ Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 6 , điểm a khoản 5 Điểu 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án chị T phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn là chị Nguyễn Thị T và bị đơn là anh Nguyễn Duy H, sinh năm 1982 có đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn G, xã H, huyện Vĩnh Bảo, thành phố H Phòng. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo.

Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đều có mặt theo giấy triệu tập của tòa án, có bản tự khai và tham gia đầy đủ Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, có mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn là anh Nguyễn Duy H đã nhận được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án về việc thông báo thụ lý vụ án, thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, đã nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng tại phiên tòa lần thứ 2 anh H vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Nguyễn Duy H.

 [2] Về nội dung vụ án: Căn cứ và lời khai của các đương sự, lời khai của người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và do Tòa án thu thập được, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, có đủ cơ sở kết luận:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Huy H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Hiệp Hào, huyện Vĩnh Bảo, thành phố H Phòng năm 2006. Như vậy, hôn nhân này là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc đến năm 2015 sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm, lối sống, không hợp nhau về tính cách, không có tiếng nói chung trong quan hệ tình cảm tâm sinh lý nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn và xô xát với nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên và chính quyèn địa phương khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân đến nay được 02 năm, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, chị T xin ly hôn, anh H không đồng ý anh cho rằng anh vẫn còn tình cảm với chị T và vì con cái còn nhỏ cần có sự chăm sóc của cả bố và mẹ. Tuy nhiên, anh không đưa ra được biện pháp để khắc phục những mâu thuẫn và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng anh H không đến, chứng tỏ anh không thực sự muốn níu kéo tình cảm vợ chồng, việc anh không lên Tòa án và không đồng ý ly hôn với chị T chỉ nhằm gây khó khăn cho chị T và kéo dài sự ràng buộc không cần thiết, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị T xin ly hôn với anh Nguyễn Duy H.

- Về con chung: Chị T và anh H có 02 con chung là Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/11/2006 và Nguyễn Duy K, sinh ngày 19/3/2014. Xét việc con chung Nguyễn Duy A đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với anh H và con chung Nguyễn Duy K còn nhỏ, chị T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng. Nên, việc giao con chung Nguyễn Duy A cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng và giao con chung là Nguyễn Duy K cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với nguyện vọng của cháu A và phù hợp với thực tế về điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung của cả chị T và anh H. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Duy K của chị T. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị T và anh H xin tự giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu, không xét.

 [3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 , điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1 . Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Duy H .

2 . Về con chung : Giao con chung là Nguyễn Duy A, sinh ngày 18/11/2006 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật và giao con chung là Nguyễn Duy K, sinh ngày 19/3/2014 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị T và anh H tự giải quyết. 

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị T đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0005449 ngày 13 tháng 7 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, thành phố H Phòng. Chị T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2017/HNGĐ-ST ngày 05/10/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:62/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về