Bản án 617/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 617/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 617/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 637/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với:

- Các bị cáo:

1. Nguyễn Quang Th (tên gọi khác: không), sinh năm 1984 tại tỉnh Đồng Tháp; Nơi đăng ký thường trú: ấp T, xã T, huyện B, tỉnh D; Nơi ở hiện nay: Tổ 22, Khu phố A, phường N, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị Ng (đã chết); bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 29/5/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 8391 ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

2. Phạm Văn T (tên gọi khác: không), sinh năm 1985 tại tỉnh C; Nơi đăng ký thường trú và cư trú: Ấp A, xã Th, huyện V, tỉnh Đ; nghề nghiệp: cơ khí; trình độ văn hóa (học vấn): 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:

không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Th và bà Huỳnh Thị Y; bị cáo có vợ tên Đinh Thị Thanh H, có hai con sinh năm 2009 và năm 2011.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 29/5/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 8390 ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa.

3. Huỳnh Văn N (tên gọi khác: không), sinh năm 1982 tại tỉnh Bạc Liêu; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Ấp Z, xã M, huyện H, tỉnh B; Nơi ở hiện nay: Khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn L (đã chết) và bà Nguyễn Thị N; bị cáo có vợ tên Trần Thị E, có 02 người con, lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2007.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 29/5/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 8389 ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

4. Đỗ Thế Q (tên gọi khác: không), sinh năm 1973 tại tỉnh Thanh Hóa; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Tổ X, Khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Thế V và bà Lê Thị T; bị cáo có vợ tên Đồng Thị H, có 01 người con sinh năm 2001.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 29/5/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 8388 ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Thị Thanh M (tên gọi khác: không),, sinh năm 1972 tại Campuchia; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: xã A, thị xã H, tỉnh Đ; Nơi ở hiện nay: Tổ 22, Khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12 (không biết chữ); dân tộc: Campuchia; giới tính: Nữ; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Lê Thị L (đã chết); bị cáo có chồng tên Nguyễn Văn C (đã ly hôn), có một người con sinh năm 2001.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị can bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 29/5/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 8393 ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa; có mặt tại phiên tòa.

6. Lê Thị Kim Th1 (tên gọi khác: không), sinh năm 1973 tại Đồng Tháp; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã Q, huyện T, tỉnh Đ. Nơi ở hiện nay: Tổ 22, Khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Cao Đài; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn X (đã chết) và bà Huỳnh Thị M; bị cáo có chồng tên Phan Vũ Ph (đã ly hôn), có một người con sinh năm 1996.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị can bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 21/5/2020 đến ngày 29/5/2020. Hiện bị can đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh số 8392 ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa: có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Khoảng 12 giờ ngày 21/5/2020, tại nhà của Đỗ Thế Q thuộc tổ 22, khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa, Q cùng Huỳnh Văn N, Nguyễn Quang Th, Phạm Văn Tiền rủ nhau đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức chơi bài Catte, mỗi ván mỗi người đặt 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), tổng số tiền một ván là 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng).

Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, Q, Nhựt, Th và T đang đánh bạc thì Lê Thị Kim Th1, Nguyễn Thị Thanh M đến nhà Q chơi và xin tham gia đánh bạc. Do Th1 và M không biết chơi bài Catte nên cả nhóm thống nhất chuyển sang đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức đánh bài cào 3 lá.

Cách thức chơi bài Catte như sau: Bộ bài tây 52 lá, mỗi người chơi được chia 6 là bài, mỗi lần đánh 01 lá bài và đánh 05 vòng là kết thúc ván bài. Thứ tự các lá bài được xếp từ cao xuống thấp và tính theo từng chất cơ, rô, chuồn, bích. Lá bài A là lớn nhất, lá bài 2 là nhỏ nhất. Người thắng sẽ được hưởng toàn bộ số tiền của người chơi đã đặt. Người thắng sẽ là người chia bài và được đánh đầu tiên. Các người chơi còn lại nếu có lá bài cùng chất và lớn hơn lá bài của người đánh trước thì đánh xuống, không có thì phải lấy 01 lá bài úp xuống. Người nào trong 04 vòng đầu tiên không đánh được lá bài nào thì sẽ thua và bị loại. Nếu trong 04 vòng đầu mà chỉ còn 01 người có bài đánh thì người đó thắng. Nếu hết vòng 4 mà có 2 người còn bài và được quyền đánh thì tiếp tục chơi vòng 5. Vòng 5 chỉ còn 02 người, mỗi người còn 02 lá bài, người chơi sẽ để ngửa 01 lá bài và úp 01 lá bài để tính thắng thua. Người đang có quyền đánh tiếp theo sẽ lật lá bài đang úp lên để đối chiếu với lá bài úp của người còn lại. Nếu người còn lại không có lá bài nào cùng chất và lớn hơn lá bài của người kia thì sẽ thua và ngược lại.

Cách thức chơi bài cào 3 lá như sau: Bộ bài tây 52 lá, người cầm cái chia đều mỗi tụ 03 lá bài, tụ có điểm cao nhất là tụ có 03 lá bài đều là hình tây (ví dụ: K, Q, J; K cơ, K rô, Q bích;…) hoặc tổng số điểm trên các lá bài là 9 (Lá bài át (A) được tính 01 điểm, lá bài tây được tính 10 điểm). Khi mở bài, người cầm cái sẽ so sánh điểm trên 03 lá bài của mình với từng tụ còn lại, nếu điểm của người cầm cái lớn hơn điểm của tụ nào, thì người cầm cái sẽ thắng toàn bộ số tiền của tụ đó đã đặt và ngược lại. Mỗi ván, người chơi đặt tiền vào mỗi tụ từ 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) đến 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Mỗi người thay nhau cầm cái 03 ván.

Số tiền từng người sử dụng đánh bạc như sau:

+ Nguyễn Quang Th đem theo và sử dụng số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng) để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, Th thua 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng); còn lại 3.600.000đ (ba triệu sáu trăm nghìn đồng) để trong nguời sử dụng vào việc đánh bạc thì bị thu giữ.

+ Phạm Văn T đem theo và sử dụng số tiền 2.200.000đ (hai triệu hai trăm nghìn đồng) để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, T thắng 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), tổng là 2.300.000đ (hai triệu ba trăm nghìn đồng) để trong nguời sử dụng vào việc đánh bạc thì bị thu giữ.

+ Huỳnh Văn N đem theo và sử dụng 1.250.000đ (một triệu hai trăm năm mươi nghìn đồng) để đánh bạc. Quá trình đánh bạc, N để hết tiền ở dưới chiếu bạc nên không rõ thắng thua và tất cả đã bị Công an thu giữ.

+ Đỗ Thế Q sử dụng 1.100.000đ (một triệu một trăm nghìn đồng) để đánh bạc, quá trình đánh bạc Q thắng 200.000đ (hai trăm nghìn đồng), tổng là 1.300.000đ (một triệu ba trăm nghìn đồng), trong đó 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) để dưới chiếu bạc, 1.000.000đ (một triệu đồng) để trong người sử dụng vào việc đánh bạc thì bị thu giữ.

+ Nguyễn Thị Thanh M mang theo và sử dụng số tiền 900.000đ (chín trăm nghìn đồng) để đánh bạc. Quá trình tham gia đánh bạc, M hòa vốn, ván cuối đang đặt 100.000đ (một trăm nghìn đồng) dưới chiếu bạc, còn lại 800.000đ (tám trăm nghìn đồng) để trong nguời sử dụng vào việc đánh bạc thì bị thu giữ.

+ Lê Thị Kim Th đem theo và sử dụng 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng) để đánh bạc, Th1 chơi ké tụ của Q. Quá trình đánh bạc, Th1 hòa vốn, ván cuối đang đặt 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) trên chiếu bạc, còn lại 100.000đ (một trăm nghìn đồng) để trong nguời sử dụng vào việc đánh bạc thì bị thu giữ.

Đến khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/5/2020, Nguyễn Q Th, Phạm Văn Tiền, Huỳnh Văn N, Đỗ Thế Q, Nguyễn Thị Thanh M, Lê Thị Kim Th1 đang đánh bạc thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang, thu giữ tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 9.600.000đ (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng).

(Biên bản bắt người phạm tội quả tang, bút lục số: 01-04;Lời khai bị can, bút lục số: 33-40A, 60-65, 88-95, 115-122, 142-151, 170-180;Lời khai người làm chứng, bút lục số:181).

* Vật chứng của vụ án:

- 01 bộ bài tây 52 lá sử dụng để đánh bạc.

- Thu giữ số tiền các bị can dùng đánh bạc tổng cộng là 9.600.000đ (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng), gồm:

+ 1.800.000đ (Một triệu tám trăm nghìn đồng) thu giữ trên chiếu bạc.

+ Thu giữ trên người các bị can số tiền 7.800.000đ (Bảy triệu tám trăm nghìn đồng) sử dụng để đánh bạc gồm:

. 1.000.000đ (Một triệu đồng) của Đỗ Thế Q.

. 3.600.000đ (Ba triệu sáu trăm nghìn đồng) của Nguyễn Q Th.

. 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm nghìn đồng) của Phạm Văn T.

. 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng) của Nguyễn Thị Thanh M.

. 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) của Lê Thị Kim Th1.

* Số tài sản khác không liên quan đến đánh bạc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ và giao trả cho chủ sở hữu gồm:

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone X màu trắng của Đỗ Thế Q.

- 01 điện thoại di động hiệu OPPO A5S của Huỳnh Văn N.

- 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus màu vàng trắng của Phạm Văn T.

- 01 điện thoại di động hiệu Vivo và 01 điện thoại di động hiệu Nokia 225 của Lê Thị Kim Th1.

(Bút lục số: 03-04, 183-196).

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 620/CT-VKSBH ngày 22/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1, Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Áp dụng Khoản 1, Điều 321 và Điểm i, s Khoản 1 Điều 51, Điều 35 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt các bị cáo mức án như sau:

+ Nguyễn Q Th: phạt tiền từ 25.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng + Phạm Văn T: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng + Huỳnh Văn N: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng + Đỗ Thế Q: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng + Nguyễn Thị Thanh M: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng + Lê Thị Kim Th1: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng - Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá sử dụng để đánh bạc; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 9.600.000đ (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng) là tiền sử dụng vào việc đánh bạc.

3. Lời nói sau cùng: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng đã mô tả, nhận thức được hành vi sai trái của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Từ khoảng 12 giờ đến 14 giờ 30 phút ngày 21/5/2020, tại nhà của Đỗ Thế Q ở tổ 22, khu phố A, phường T, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, Q cùng với Nguyễn Quang Th, Phạm Văn T, Huỳnh Văn N, Nguyễn Thị Thanh M và Lê Thị Kim Th1 có hành vi đánh bạc thắng thua bằng tiền với hình thức đánh bài Catte và bài cào 3 lá thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa phát hiện bắt quả tang, thu giữ tổng số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 9.600.000đ (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng).

Như vậy, bản Cáo trạng số 620/CT-VKSBH-HS ngày 22/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc đánh bạc được thua bằng tiền là một tệ nạn xã hội thường dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Vai trò của các bị cáo: các bị cáo không có sự bàn bạc chặt chẽ mà chỉ là đồng phạm giản đơn. Các bị cáo chịu trách nhiệm chung số tiền nhưng phân hóa vai trò theo số tiền từng bị cáo sử dụng để tham gia đánh bạc. Bị cáo Q sử dụng nhà để cùng các bị cáo đánh bạc nhưng số tiền đánh bạc là 1.100.000 đồng. Số tiền sử dụng vào việc đánh bạc theo thứ tự từ nhiều đến ít dần là: Th (4.000.000 đồng), T (2.200.000 đồng), Nh (1.250.000 đồng), Q (1.100.000 đồng), M (900.000 đồng), Th1 (150.000 đồng).

- Về nhân thân: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Các bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được quy định tại điểm i, s, Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, hành vi bộc phát nhất thời và số tiền phạm tội không lớn. Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo có nhân thân tốt; ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật tại địa phương; có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, có khả năng tự cải tạo. Các bị cáo đều là người lao động nghèo, công việc không ổn định, bị cáo Th, M, N không biết chữ nên nhận thức pháp luật còn hạn chế. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, vai trò, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, nhân thân của từng bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của từng bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử xét chỉ cần áp dụng hình phạt tiền đối với các bị cáo là đủ để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của phát luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về vật chứng:

- Đối với số tiền 9.600.000đ (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng) là tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc cần tịch thu sung quỹ nhà nước:

- Đối với 01 bộ bài tây 52 lá là phương tiện phạm tội cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với các tài sản khác không liên quan đến đánh bạc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã thu giữ và giao trả cho chủ sở hữu là phù hợp quy định pháp luật.

[4] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố các bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của các bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Quang Th, Phạm Văn T, Huỳnh Văn N, Đỗ Thế Q, Nguyễn Thị Thanh M, Lê Thị Kim Th1 phạm tội “Đánh bạc”.

1. Về hình phạt:

- Căn cứ Khoản 1 Điều 321; Điều 17, Điều 35, Điều 58, điểm i, s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

Phạt bị cáo Nguyễn Quang Th số tiền: 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

Phạt bị cáo Phạm Văn T số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng). Phạt bị cáo Huỳnh Văn N số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng). Phạt bị cáo Đỗ Thế Q số tiền 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng).

Phạt bị cáo Nguyễn Thị Thanh M số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

Phạt bị cáo Lê Thị Kim Th1 số tiền 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm a, Khoản 1, Điều 46, điểm a, c, Khoản 1 điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền: 9.600.000đ (Chín triệu sáu trăm nghìn đồng) do các bị cáo dùng đánh bạc.

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tây 52 lá.

Các vật chứng trên hiện đang được lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17 tháng 11 năm 2020, biên lai thu tiền số 000184 ngày 17/11/2020.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc các bị cáo Nguyễn Quang Th, Đỗ Thế Q, Phạm Văn T, Huỳnh Văn N, Nguyễn Thị Thanh M và Lê Thị Kim Th1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 617/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội đánh bạc

Số hiệu:617/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về