Bản án 617/2020/HS-PT ngày 29/12/2020 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 617/2020/HS-PT NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 29 tháng 12 năm 2020 tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 518/2020/TLPT- HS, ngày 04/11/2020 đối với bị cáo A do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 157/2020/HSST, ngày 25/09/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo kháng cáo:

Bị cáo A, sinh năm 1987 tại tỉnh Sóc Trăng; Thường trú: đường B, xã C, thị xã D, tỉnh Sóc Trăng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông M và bà N; hoàn cảnh gia đình: Có vợ và 01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không:

Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

Người bào chữa: Ông K, luật sư của Công ty luật Trách nhiệm hữu hạn Đinh Nguyên, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo A (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 10/2018, bị cáo A muốn có bằng Cao đẳng kỹ thuật để bổ sung hồ sơ đi xuất khẩu lao động ở Nhật. Bị cáo A quen biết với Bà T làm việc tại công ty Y nên Bà T giới thiệu Bị cáo A gặp đối tượng Ông V (không rõ lai lịch), Ông V hứa sẽ làm bằng Cao đẳng Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cho Bị cáo A với giá 35.000.000 đồng thì Bị cáo A đồng ý. Bị cáo A đưa cho Bà T 35.000.000 đồng để đưa cho Ông V và Ông V giao cho Bị cáo A 01 bằng Cao đẳng Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng số hiệu B135660 số vào cấp sổ bằng 299-CĐ có ký tên đóng dấu của tiến sỹ Đào Khánh Dư hiệu trưởng Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng, 01 bảng điểm, 01 bảng sao công chứng. Ngày 15/3/2019, Bị cáo A mang bằng tốt nghiệp Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng, 01 bảng điểm và 01 bảng sao công chứng đến Trung tâm ngoại ngữ Bắc Việt để nộp hồ sơ đi xuất khẩu lao động sang Nhật Bản. Ngày 04/4/2019, nhân viên của Trường Ngoại ngữ Bắc Việt đem bằng tốt nghiệp đến UBND Phường 17 để sao y thì được UBND Phường 17, quận Gò Vấp phát hiện bằng giả nên trình báo công an. Nhân viên Trường Ngoại ngữ Bắc Việt yêu cầu Bị cáo A làm 01 giấy chứng nhận hoàn thành khóa học nộp cho UBND Phường 17. Bị cáo A đến Phường 17, Gò Vấp nộp giấy chứng nhận thì bị phát hiện trình báo Công an.

Ngày 19/9/2019, Cơ quan điều tra có kết luận giám định số 1578/KLGĐ- TT kết luận:

- 01 “Bằng tốt nghiệp cao đẳng cơ khí” số hiệu B135660, đề Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A, ngày 15/10/2015 (Ký hiệu A1):

- 01 “Bảng ghi kết quả học tập” đề mã số SV: 09245492, đề Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A, ngày 15/10/2015 (Ký hiệu A2):

- 01 “Giấy xác nhận hoàn thành khóa học” đề Hiệu trưởng Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A, ngày 15/10/2015 (Ký hiệu A3):

- 01 “Giấy xác nhận hoàn thành khóa học” đề Hiệu trưởng Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A, ngày 06/4/2015 (Ký hiệu A4):

- 01 “Giấy xác nhận hoàn thành khóa học” đề Hiệu trưởng Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A, ngày 08/4/2015 (Ký hiệu A5):

- 03 bản sao “Bảng ghi kết quả học tập” của Bị cáo A, đề mã số SV:

09245492, đề Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A, đề Phòng Tư pháp quận Thủ Đức chứng thực ngày 02/10/2018 (Ký hiệu A6, A7, A8):

- 03 bản sao “Bằng tốt nghiệp cao đẳng cơ khí” số hiệu B135660, đề Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A, đề phòng tư pháp quận Thủ Đức chứng thực ngày 02/10/2018 (Ký hiệu A9, A10, A11):

- 03 bản sao “Giấy xác nhận hoàn thành khóa học” đề Hiệu trưởng Trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng cấp cho Bị cáo A ngày 15/10/2015, đề Phòng Tư pháp quận Thủ Đức chứng thực ngày 03/10/2018 (Ký hiệu A12, A13, A14):

Các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A5 là các tài liệu giả. Không đủ cơ sở kết luận các dấu tròn có nội dung "Phòng Tư pháp – Quận Thủ Đức – TP. Hồ Chí Minh, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” và các chữ ký đứng tên Nguyễn Thúy Hoa trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A6 đến A14 là thật hay giả do không có mẫu so sánh tương ứng.

Tại Cơ quan điều tra Công an quận Gò Vấp, Bị cáo A đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đối với bà T khai nhận do quen biết với Bị cáo A nên giới thiệu Bị cáo A cho Ông V để liên hệ làm bằng để bổ sung hồ sơ đi xuất khẩu lao động. Bản thân Bà T không biết Ông V làm bằng giả mà chỉ nghe Ông V nói có quen biết các thầy cô trong trường Cao đẳng kỹ thuật Cao Thắng nên giới thiệu cho Bị cáo A, Bà T không thu lợi gì từ việc giới thiệu Bị cáo A cho Ông V để làm bằng giả. Hành vi của Bà T chưa đủ căn cứ để xử lý hình sự.

Đối với Ông V (không rõ lai lịch) khi nào xác định được đối tượng Ông V, sẽ củng cố chứng cứ xử lý sau.

Tại cơ quan điều tra, Bị cáo A khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 157/2020/HSST ngày 25/9/2020 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đã QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố Bị cáo A phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt Bị cáo A 02 năm 09 tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của bị cáo.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 28/9/2020, Bị cáo A kháng cáo xin xem xét lại vụ án và giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 21/12/2020, bị cáo A làm đơn trình bày cho rằng bà Bà T là người cầm đầu việc làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức chứ không phải bị cáo và ông Ông V. Hiện tại ông Ông V đã bị Công an quận Gò Vấp bắt. Ông Ông V khai nhận là nhân viên của bà Bà T và làm việc theo sự chỉ đạo của bà Bà T và là người nhận tiền làm giấy tờ giả. Từ đó, bị cáo cho rằng việc cơ quan tiến hành tố tụng không khởi tố bà Bà T và ông Ông V là bỏ lọt tội phạm nên đề nghị hủy bản án sơ thẩm số 175/2020/HSST ngày 25/9/2020 để điều tra và xét xử lại theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi cho bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất vụ án, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã đề nghị: Do vụ án hiện đã có thêm bị can liên quan hành vi phạm tội và việc bắt giữ Ông V là theo sự trình báo của bị cáo A. Do vậy, cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra truy tố xét xử lại nhằm xem xét lại toàn diện và chính xác vai trò của từng bị cáo trong vụ án. Đồng thời xem xét lại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo… Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để nhập vụ án, xem xét lại vai trò của bị cáo A, Ông V trong vụ án.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Đồng ý với đề nghị của Viện kiểm sát về việc hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại, làm rõ vai trò đồng phạm. Nếu Hội đồng xét xử tiếp tục đưa vụ án ra xét xử, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét một số tình tiết giảm nhẹ sau: Lúc đầu bị cáo không có ý thức làm bằng giả để đi xuất khẩu lao động; động cơ mục đích của bị cáo là đi làm việc ở nước ngoài để kiếm sinh sống.Việc bị cáo phạm tội xuất phát từ sự mở đường, vẽ lối của Bà T và Ông V. Động cơ, mục đích phạm tội của bà Bà T là rất nghiêm trọng và có vai trò cầm đầu. Bà Bà T đóng vai trò chính, ông Ông V với vai trò là người làm thuê cho Bà T. Trong bản án sơ thẩm cho rằng bà Bà T không có vai trò gì là không đúng, làm giảm nhẹ vai trò của bà Bà T mà làm tăng nặng trách nhiệm cho bị cáo là không đúng. Mức độ lỗi của bị cáo là nhẹ so với mức hình phạt 02 năm 09 tháng tù. Ngoài ra, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, phạm tội lần đầu, chưa gây thiệt hại, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có công lao lớn trong việc giúp đỡ cơ quan điều tra điều tra tội phạm của bị can Ông V; nên cần xem xét cho bị cáo điểm g, h, i, s, t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Từ đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự để xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng mức án cải tạo không giam giữ hoặc một khoản tiền phạt hợp lý.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo A trình bày đồng ý với lời bào chữa của luật sư. Trong trường hợp Hội đồng xét xử không hủy bản án sơ thẩm, bị cáo chỉ xin Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ để bị cáo có thể đi làm phụng dưỡng mẹ già và chăm lo cho con nhỏ.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo A tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[2] Về kháng cáo của bị cáo và quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm:

Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy đơn kháng cáo của bị cáo nằm trong thời hạn luật định là hợp lệ.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, từ đó áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo 02 năm 09 tháng tù. Mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

Đối với yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Trước và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tình tiết gì mới để Hội đồng xét xử xem xét nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Đối với quan điểm bào chữa của luật sư đề nghị áp dụng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác cho bị cáo, Hội đồng xét xử XÉT THẤY

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là người lao động có công ăn việc làm, bản thân bị cáo đã chấp nhận chi 35.000.000 đồng để làm hồ sơ tư vấn và hơn 4.000 USD để đi lao động. Ngoài ra, không có chứng cứ nào khác thể hiện hoàn cảnh đặc biệt khó khăn của bị cáo nên không chấp đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này của luật sư.

Về đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, Hội đồng xét xử xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm trật tự quản lý hành chính nên không có cơ sở xem xét tình tiết chưa gây thiệt hại.

Về đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, tuy nhiên bị cáo làm giả nhiều giấy tờ thuộc trường hợp khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự là thuộc trường hợp nghiêm trọng, nên không áp dụng tình tiết này cho bị cáo.

Về đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là bị cáo đã lập công chuộc tội. Hội đồng xét xử xét thấy hồ sơ không có tài liệu, căn cứ nào thể hiện bị cáo lập công chuộc tội. Đối với đối tượng Ông V, bị cáo khai là bị cáo chỉ điểm bắt nhưng hiện nay Cơ quan điều tra cũng chưa có kết luận về hành vi phạm tội của đối tượng Ông V. Do đó, không có căn cứ chấp nhận tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, không có căn cứ chấp nhận các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này cho bị cáo.

[3] Về đề nghị, yêu cầu hủy bản án sơ thẩm của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa, bị cáo:

Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo A đã có hành vi thuê Ông V làm giả 05 loại giấy tờ để làm hồ sơ đủ điều kiện đi xuất khẩu lao động sang Nhật. Bị cáo đã lấy các giấy tờ giả này nộp hồ sơ và bị phát hiện như nêu trên. Hành vi phạm tội của bị cáo A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm c khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo là đúng người, đúng tội, không oan sai. Việc xem xét truy cứu trách nhiệm của các đối tượng Bà T và Ông V không làm ảnh hưởng đến hành vi của bị cáo và tính đúng đắn của bản án sơ thẩm. Mặt khác, bị cáo A đã được Tòa án cấp sơ thẩm xét xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như tuyên xử với mức hình phạt phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo A để nhập vụ án, điều tra, truy tố, xét xử lại theo đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, theo yêu cầu của người bào chữa và của bị cáo A.

Đối với hành vi của các đối tượng Bà T và Ông V, Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan điều tra có thẩm quyền tiếp tục làm rõ hành vi của các đối tượng trên. Nếu đủ cơ sở đề nghị xử lý trong vụ án khác.

Từ những phân tích trên, không chấp nhận đề nghị hủy bản án sơ thẩm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, người bào chữa cho bị cáo và bị cáo A.

[4] Về án phí:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Về các vấn đề khác:

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,  

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt Bị cáo A 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

2. Kiến nghị Cơ quan điều tra có thẩm quyền tiếp tục làm rõ hành vi của các đối tượng Bà T và Ông V. Nếu đủ cơ sở, đề nghị xử lý trong vụ án khác.

3. Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

544
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 617/2020/HS-PT ngày 29/12/2020 về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:617/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về