Bản án 61/2020/HSST ngày 17/09/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 61/2020/HSST NGÀY 17/09/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 61/2020/HSST ngày 27/8/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2020/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Thạch T (tên gọi khác: Lâm, Sót) - sinh năm 1993, tại Bình Dương; Dân tộc: Khơ me; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 06/12; con ông Thạch Ở (đã chết) và bà Ngưu Thị Chen, sinh năm 1950. HKTT: ấp Nước Vàng, xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

Nơi cư trú: như trên.

- Tiền án: 01. Ngày 13/12/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xử phạt 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Ngày 12/7/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Chưa chấp hành xong án phí - Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/3/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

 2. Họ và tên: Trần Xuân H - sinh năm 2000, tại Bình Phước; Dân tộc: Kinh:

Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 7/12; con ông Trần Xuân Liên (đã chết) và bà Đỗ Thị Rịu, sinh năm 1960. Sống như vợ chồng với Nguyễn Thị Ngọc Mai sinh năm 2001 và có 01 con chung sinh năm 2020. HKTT: ấp 4B, xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước.

Nơi cư trú: như trên.

- Tiền án, Tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/3/2020 cho đến ngày 20/5/2020 được tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

Nguyễn Thị Tuyết – sinh năm 1980 (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Bình Tiến, xã An Bình, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Đỗ Thị Rịu, sinh năm 1960 (có mặt) Nơi cư trú: ấp 4B, xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Nguyễn Huy Hoàng, sinh năm 1990 (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn Phú T, xã Phú Trung, huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 08 giờ sáng ngày 07/3/2020, Trần Xuân H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu trắng đen, biển số 93M1 – 298.41chở Thạch T đến vườn tiêu (không rõ chủ sở hữu) tại ấp 4, xã Tân Lập, huyện Đồng Phú để uống rượu. Sau khi uống rượu xong, do không có tiền tiêu xài nên T rủ H đi cướp giật tài sản của chị Nguyễn Thị Tuyết đang thu mua hạt điều tại ấp 1, xã Tân Lập, huyện Đồng Phú thì H đồng ý. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe mô tô biển số 93M1 – 298.41chở T đến chỗ chị Tuyết mua hạt điều. Khi đến, H ngồi trên xe mô tô chờ còn T đi vào chỗ chị Tuyết, thấy chị Tuyết đang nằm trên võng, T giả vờ hỏi mượn tiền nhưng chị Tuyết không cho mượn nên T giật chiếc giỏ xách màu đen của chị Tuyết đang để trên ghế gần đó rồi chạy ra xe mô tô cùng H tẩu thoát. Khi cả hai đi đến lô cao su gần cầu Ông Hói tại ấp 4 xã Tân Lập, huyện Đồng Phú dừng xe kiểm tra giỏ xách giật được của chị Tuyết thấy bên trong có 02 bộ xạc pin điện thoại di động, 01 dây xạc pin điện thoại di động, 01 hộp mỹ phẩm, 01 tuýp kem mỹ phẩm, 01 hộp thực phẩm chức năng, 01 chai dầu gió và 01 cái kính ngoài ra không có tài sản nào khác. T lấy 01 chai dầu gió và 01 bộ xạc pin điện thoại di động, đối với các tài sản còn lại do thấy không có giá trị nên T bỏ vào giỏ xách rồi vứt lại tại lô cao su.

Sau khi bị cướp giật tài sản, cùng ngày chị Nguyễn Thị Tuyết đã đến Công an xã Tân Lập, huyện Đồng Phú trình báo và Công an xã Tân Lập đã chuyển hồ sơ vụ việc cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú giải quyết theo thẩm quyền. Sau khi bị Cơ quan điều tra mời lên làm việc, Thạch T và Trần Xuân H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên (bút lục 112 – 121; 126 - 135).

Theo Kết luận định giá tài sản số 29 ngày 31/3/2020, của Hội đồng định giá tố tụng hình sự huyện Đồng Phú, kết luận tại thời điểm bị chiếm đoạt:

- 01 (một) bộ sạc điện thoại di động nhãn hiệu Microsoft có giá trị là 20.000 đồng:

 - Đối với 01 (một) giỏ xách dạng da màu đen, có 02 quai màu đen, có khóa kéo bằng kim loại không có nhãn hiệu; 01 (một) sợi dây sạc điện thoại di động màu đen không nhãn hiệu; 01 (một) bộ sạc điện thoại gồm chân sạc màu trắng không nhãn hiệu, dây sạc màu trắng đỏ đen có dòng chữ “BYZ” và 01 (một) mắt kính màu trắng không nhãn hiệu. Do tài sản đề nghị trưng cầu không thể hiện cụ thể nên Hội đồng không tiến hành xác định giá.

- Đối với 01 (một) chai dầu gió có vỏ bằng thủy tinh, bên trong chứa dung dịch màu cam; 01 (một) hộp mỹ phẩm dạng kem, nhãn hiệu “Sáng hồng Bảo Ngọc”:

01 (một) tuýp mỹ phẩm dạng kem, trên thân có dòng chữ “No sebum perfect UV shield” màu vàng trắng; 01 (một) Hộp thực phẩm chức năng nhãn hiệu “Hoàng An”. Do các tài sản đề nghị trưng cầu không xác định được giá trị sử dụng nên Hội đồng không tiến hành xác định giá.

Tổng giá trị tài sản sau định giá là 20.000 đồng (bút lục 97).

Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị can:

- Tình tiết tăng nặng:

+ Bị can Thạch T: Tái phạm.

+ Bị can Trần Xuân H: Không.

- Tình tiết giảm nhẹ:

+ Bị can Thạch T: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cảỉ; là người đồng bào dân tộc thiểu số khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế:

+ Bị can Trần Xuân H: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vật chứng thu giữ (bút lục 58, 59, 60):

- 01 (một) giỏ xách bằng da màu đen không có nhãn hiệu, có 02 quai đeo có khóa kéo bằng kim loại, đã bị rách nhiều chỗ:

- 01 (một) hộp kem mỹ phẩm hiệu “Sáng hồng Bảo Ngọc” đã qua sử dụng:

- 01 (một) tuýp mỹ phẩm do Hàn Quốc sản xuất, trên thân có dòng chữ “No sebum perfect UV shield” đã qua sử dụng:

- 01 (một) sợi dây sạc điện thoại di động màu đen không nhãn hiệu:

- 01 (một) bộ sạc điện thoại, chân sạc màu trắng không nhãn hiệu, dây sạc màu trắng đỏ đen có dòng chữ “BYZ”:

- 01 (một) cái mắt kính màu trắng bằng nhựa, không nhãn hiệu:

- 01 (một) hộp thực phẩm chức năng nhãn hiệu “Hoàng An” đã qua sử dụng:

- 01 (một) bộ sạc điện thoại màu đen, nhãn hiệu Microsoft:

- 01 (một) chai dầu gió vỏ bằng thủy tinh, bên trong đựng dung dịch màu cam đã qua sử dụng:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, số seri 1: 3577 321 0437 2112:

- 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy A6 màu đen, số Imei 1: 3579 310 923 24206/01, số Imei 2: 3579 3209 232 4204/01:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu trắng đen, biển số 93M1 – 298.41.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Đối với Nguyễn Thị Tuyết khai nhận trong giỏ xách bị Thạch T và Trần Xuân H cướp giật còn có số tiền 10.000.000 đồng nhưng Cơ quan điều tra chưa chứng minh được T, H chiếm đoạt, tách ra xác minh, xử lý sau nên Viện kiểm sát không đề cập đến việc xử lý.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen mà Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú thu giữ của Thạch T thì T khai nhận lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác tại huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương để mua chiếc điện thoại này. Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú đã chuyển chiếc điện thoại cho Cơ quan CSĐT Công an huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xử lý theo quy định nên Viện kiểm sát không đề cập đến việc xử lý.

Đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương của Thạch T, đã được các Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương xử lý trong một vụ án khác nên Viện kiểm sát huyện Đồng Phú không đề cập đến việc xử lý.

Tại bản cáo trạng số 62/CT-VKS ngày 26/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo Thạch T, Trần Xuân H phạm tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Thạch T, Trần Xuân H phạm tội “Cướp giật tài sản”:

- Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38, Điều 50; 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Thạch T mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38, Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Xuân H mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Lời nói sau cùng các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đến mức thấp nhất, để bị cáo sớm về đoàn tụ với gia đình, làm người có ích cho xã hội..

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đồng Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Thạch T, Trần Xuân H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng số 62/CTr-VKS ngày 26 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước đã truy tố.

Xét lời khai nhận tội của các bị cáo cơ bản phù hợp với nhau,phù hợp với lời khai của người bị hại về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội, người liên quan, vật chứng vụ án, đồng thời phù hợp với kết luận của đại diện Viện kiểm sát cùng các tài liệu, chứng cứ được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: ngày 07/3/2020, Trần Xuân H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner màu trắng đen, biển số 93M1 – 298.41 chở Thạch T đến địa điểm thu mua hạt điều của chị Nguyễn Thị Tuyết tại ấp 1 xã Tân Lập, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước rồi T giật chiếc giỏ xách của chị Tuyết đang để trên ghế bên trong có 02 bộ xạc pin điện thoại di động, 01 dây xạc pin điện thoại di động, 01 hộp mỹ phẩm, 01 tuýp kem mỹ phẩm, 01 hộp thực phẩm chức năng, 01 chai dầu gió và 01 cái mắt kính rồi cả hai lên xe mô tô tẩu thoát. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 20.000 đồng (Hai mươi nghìn đồng).

[3] Hành vi mà các bị cáo thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội trực tiếp xâm phạm tài sản của người khác là khách thể được pháp luật bảo vệ, ngoài ra còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương.

Các bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, khi thực hiện hành vi phạm tội các bị cáo nhận thức được việc cướp giật tài sản là vi phạm pháp luật và sẽ bị pháp luật nghiêm trị nhưng vì mục đích tư lợi cá nhân mà các bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội.

[4] Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước truy tố các bị cáo Thạch T, Trần Xuân H phạm tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[5] Xét tính chất của hành vi, hậu quả do các bị cáo gây ra là rất nghiêm trọng không những xâm phạm đến tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử các bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Đây là vụ án đồng phạm giản đơn cần phân tích vai trò của từng bị cáo để cá thể hóa hình phạt.

Đối với bị cáo Thạch T là người khở sướng rủ rê bị cáo H đi cướp giật tài sản. Mặt khác bị cáo có 01 tiền án về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm. Vì vậy cần xét xử bị cáo mức án nghiêm khắc cao hơn bị cáo H mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.

Đối với bị cáo Trần Xuân H là đồng phạm giúp sức tích cực cho đối tượng Thạch T, bị cáo là người điều khiển xe mô tô chở T đi thực hiện hành vi cướp giật tài sản của chị Tuyết. Vì vậy cần xét xử bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện.

Tuy nhiên, khi lượng hình xét các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo H có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo T là người dân tộc thiểu số. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[7] Kết luận của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về phần hình phạt đối với các bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa bị hại vắng mặt và trong quá trình điều tra bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Vật chứng vụ án: đối với 01 (một) giỏ xách bằng da màu đen không có nhãn hiệu, có 02 quai đeo có khóa kéo bằng kim loại, đã bị rách nhiều chỗ; 01 (một) hộp kem mỹ phẩm hiệu “Sáng hồng Bảo Ngọc” đã qua sử dụng; 01 (một) tuýp mỹ phẩm do Hàn Quốc sản xuất, trên thân có dòng chữ “No sebum perfect UV shield” đã qua sử dụng; 01 (một) sợi dây sạc điện thoại di động màu đen không nhãn hiệu; 01 (một) bộ sạc điện thoại, chân sạc màu trắng không nhãn hiệu, dây sạc màu trắng đỏ đen có dòng chữ “BYZ”; 01 (một) cái mắt kính màu trắng bằng nhựa, không nhãn hiệu; 01 (một) hộp thực phẩm chức năng nhãn hiệu “Hoàng An” đã qua sử dụng; 01 (một) bộ sạc điện thoại màu đen, nhãn hiệu Microsoft; 01 (một) chai dầu gió vỏ bằng thủy tinh, bên trong đựng dung dịch màu cam đã qua sử dụng. Đây là những tài sản của chị Tuyết nên cần trả lại cho chị Tuyết theo quy định.

Đối với 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy A6 màu đen, số Imei 1:

3579 310 923 24206/01, số Imei 2: 3579 3209 232 4204/01 là tài sản riêng của bị cáo Trần Xuân H nên cần trả lại cho bị cáo Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu trắng đen, biển số 93M1 – 298.41 đứng tên Trần Xuân H nhưng do bà Rịu mua và bà Rịu không biết H dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bà Rịu [9] Về án phí: các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Thạch T (tên gọi khác: Lâm, Sót), Trần Xuân H phạm “Tội Cướp giật tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Thạch T (tên gọi khác: Lâm, Sót) 02 năm 06 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày 10/3/2020.

Áp dụng khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 38; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Xuân H 01 năm 06 tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án phạt tù. Khấu trừ thời hạn tạm giam trước từ ngày 10/3/2020 cho đến ngày 20/5/2020.

3. Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Trà lại cho chị Nguyễn Thị Tuyết: 01 (một) giỏ xách bằng da màu đen không có nhãn hiệu, có 02 quai đeo có khóa kéo bằng kim loại, đã bị rách nhiều chỗ:

- 01 (một) hộp kem mỹ phẩm hiệu “Sáng hồng Bảo Ngọc” đã qua sử dụng:

- 01 (một) tuýp mỹ phẩm do Hàn Quốc sản xuất, trên thân có dòng chữ “No sebum perfect UV shield” đã qua sử dụng:

- 01 (một) sợi dây sạc điện thoại di động màu đen không nhãn hiệu:

- 01 (một) bộ sạc điện thoại, chân sạc màu trắng không nhãn hiệu, dây sạc màu trắng đỏ đen có dòng chữ “BYZ”:

- 01 (một) cái mắt kính màu trắng bằng nhựa, không nhãn hiệu:

- 01 (một) hộp thực phẩm chức năng nhãn hiệu “Hoàng An” đã qua sử dụng:

- 01 (một) bộ sạc điện thoại màu đen, nhãn hiệu Microsoft:

- 01 (một) chai dầu gió vỏ bằng thủy tinh, bên trong đựng dung dịch màu cam đã qua sử dụng:

Trả lại cho bị cáo Trần Xuân H: 01 (một) điện thoại di động Samsung Galaxy A6 màu đen, số Imei 1: 3579 310 923 24206/01, số Imei 2: 3579 3209 232 4204/01; Trả lại cho bà Đỗ Thị Rịu: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Winner màu trắng đen, biển số 93M1 – 298.41.

5. Về án phí: mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

4. Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại địa phương./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2020/HSST ngày 17/09/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:61/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về