Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 09/07/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI - TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 61/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/07/2020 VỀ TRANH CHẤP YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 09 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 165/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2020 về việc “Tranh chấp yêu cầu ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

1/. Nguyên đơn: Chị Trương Thị A, sinh năm 1987 Địa chỉ: ấp LĐ, xã LĐT, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu

2/. Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc T, sinh năm 1986 Địa chỉ: ấp LĐ, xã LĐT, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu (Chị A có đơn xin vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 02/4/2020, lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Trương Thị A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: giữa chị với anh Nguyễn Quốc T đi đến hôn nhân do quen biết, hôn nhân hoàn T tự nguyện, được cha mẹ hai bên tổ chức đám cưới theo phong tục tại địa phương vào năm 2006 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LĐ, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu vào ngày 08/7/2008 và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật.

Nguyên nhân ly hôn theo chị A xác định: Trong thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên cự cãi, tính tình không hợp nhau, anh T nghe lời cha mẹ ruột xúi giục đánh chị từ đó dẫn đến cuộc sống vợ chồng ngày càng căng thẳng và không còn hạnh phúc, hiện chị và anh T không còn sống chung, tình trạng mâu thuẫn giữa chị và anh T trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.

Về con chung: Chị A xác định trong thời gian chung sống vợ chồng có 02 người con chung tên Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 07/8/2006 và Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 30/10/2014, hiện nay các con đang sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con và không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: chị Cẩm xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không đặt ra xem xét giải quyết.

Đối với anh Nguyễn Quốc T: Mặc dù anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập làm việc và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh T vẫn không đến Tòa án để làm việc theo nội dung giấy triệu tập của Tòa án, và cũng không có lý do chính đáng. Do đó, Tòa án sẽ tiến hành giải quyết vắng mặt đối với anh T theo đúng trình tự quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và của nguyên đơn là đúng theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn anh Nguyễn Quốc T chấp hành chưa nghiêm theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về nội dung vụ án: giữa chị A và anh T kết hôn hoàn T tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Nhưng do thời gian chung sống anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn không hàn gắn được, hiện tại chị A xác định chị không còn tình cảm với anh T. Điều này chứng tỏ như vậy cuộc sống vợ chồng của chị A và anh T nếu tiếp tục kéo dài thì cũng không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của anh chị không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị A được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định của pháp luật;

Về con chung: Từ lúc chị A và anh T sống ly thân với nhau chị A là người trực tiếp nuôi các con chung. Chị A vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, tại bản tự khai ngày 02/6/2020 cháu Nguyễn Quốc Th có nguyện vọng được sống với mẹ là chị Trương Thị A khi cha mẹ cháu ly hôn, đây là ý kiến hoàn T tự nguyện của cháu Th và không bị ai đe dọa hay ép buộc. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao các con cho chị A được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Anh Nguyễn Quốc T được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc các con chung không ai được cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị A không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: chị A xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không đặt ra yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí hôn nhân gia đình thì chị A phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về thủ tục tố tụng: chị A có đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết về việc tranh chấp ly hôn với anh T. Anh T có địa chỉ cư trú tại huyện Đông Hải. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Đông Hải.

Chị A có đơn yêu cầu được vắng mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm. Căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử chấp nhận và tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị A.

Anh Nguyễn Quốc T đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng anh T vẫn vắng mặt mà không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh Nguyễn Quốc T.

[2] Về nội dung vụ án: giữa chị A và anh T kết hôn hoàn T tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đã được Ủy ban nhân dân xã Long Điền cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn vào ngày 08/7/2008 nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Xét yêu cầu ly hôn của chị A đối với anh T thì Hội đồng xét xử thấy rằng: mục đích của hôn nhân là để tạo dựng một gia đình hạnh phúc, vợ chồng phải biết yêu thương, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau, giúp đỡ nhau cùng nhau tiến bộ. Nhưng thời gian chung sống chị A và anh T lại không làm được, mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn lại được. Hiện anh chị đã sống ly thân với nhau một khoảng thời gian nhưng cả hai anh chị đều không có biện pháp cụ thể nào để thể hiện anh chị muốn hàn gắn lại với nhau, anh chị không còn quan tâm chăm sóc cho nhau.Chị A xác định vợ chồng chị không còn khả năng tiếp tục chung sống, tình cảm vợ chồng không còn. Hội đồng xét xử xét cuộc sống vợ chồng của chị A và anh T là không thể hàn gắn lại được, cuộc sống chung đã không còn hạnh phúc, tình trạng hôn nhân của anh chị đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân của không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, nên căn cứ vào Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A đối với anh T là hoàn T phù hợp với quy định của pháp luật.

Về nuôi con chung: Từ lúc chị A và anh T sống ly thân với nhau chị A là người trực tiếp nuôi các con chung. Chị A vẫn đảm bảo về điều kiện nuôi con và sự phát triển của con sau này, tại bản tự khai ngày 02/6/2020 cháu Nguyễn Quốc Th có nguyện vọng được sống với mẹ là chị Trương Thị A khi cha mẹ cháu ly hôn, đây là ý kiến hoàn T tự nguyện của cháu ThA và không bị ai đe dọa hay ép buộc. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giao các con cho chị A được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là hoàn T phù hợp.

Anh Nguyễn Quốc T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị A không đặt ra việc cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: chị A xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không đặt ra yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị A phải chịu theo quy định của pháp luật.

Quan điểm của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa là phù hợp, được Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.

Vì các lẽ nêu trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1/. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị A;

Xử cho chị Trương Thị A được ly hôn với anh Nguyễn Quốc T.

2/.Về con chung: Giao 02 người con chung tên Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 07/8/2006 và Nguyễn Quốc Th, sinh ngày 30/10/2014 cho chị Trương Thị A được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Anh Nguyễn Quốc T có quyền, nghĩa vụ đến thăm nom chăm sóc các con chung không ai được quyền cản trở.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết 3/. Về tài sản chung và nợ chung: chị A xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung nên không đặt ra yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

4/. Về án phí: Chị Trương Thị A phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007579 ngày 27 tháng 4 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đông Hải.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho chị Trương Thị A và anh Nguyễn Quốc T được biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2020/HNGĐ-ST ngày 09/07/2020 về tranh chấp yêu cầu ly hôn

Số hiệu:61/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về