Bản án 61/2020/DS-PT ngày 24/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

A ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 61/2020/DS-PT NGÀY 24/12/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 78/2020/TLPT-DS ngày 10 tháng 11 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”.

Do bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2020/DS-ST ngày 23/07/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 75/2020/QĐ-PT ngày 26 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Võ Thị Kim K – Vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 2, xã N, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông.

Ngưi đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim L;

Địa chỉ: Tổ dân phố 2, thị trấn Đức An, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông – Có mặt.

- Bị đơn: Bà Hoàng Thị H – Có mặt.

Địa chỉ: Thôn 4, xã Q, huyện T, tỉnh Đăk Nông.

Ngưi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Anh Nguyễn Văn H –Luật sư, Văn phòng Luật sư Nguyễn Thiên H – Thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đăk Nông - Có mặt.

- Người kháng cáo: Bị đơn bà Hoàng Thị H – Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/12/2019 của bà Võ Thị Kim K và trong quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Kim L trình bày:

Tháng 7 năm 2013, bà Hoàng Thị H có vay của bà Võ Thị Kim K số tiền 40.000.000 đồng, hai bên có thỏa thuận lãi suất 2,5%/tháng, có viết giấy vay, hẹn đến cuối năm 2013 sẽ trả.

Năm 2014, bà K tiếp tục cho bà H mượn 70.000.000 đồng, không thỏa thuận lãi suất, có viết giấy mượn tiền, hẹn cuối năm 2014 sẽ trả, bà H có thế chấp cho bà K 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 937485, việc thế chấp không lập bằng văn bản và không đăng ký theo quy định của pháp luật.

Đến thời hạn trả nợ, bà K đã nhiều lần đến gặp bà H để yêu cầu trả nợ, nhưng bà H không trả. Đến ngày 22/01/2017, bà K thuê xe Tacxi đến nhà bà H để đòi nợ nhưng bà H không trả, lúc này hai bên chốt lại số nợ gốc là 110.000.000 đồng và viết lại giấy vay nợ, bà K đã huỷ các giấy vay tiền trước đó. Khi viết lại giấy vay nợ, do bà K không mang theo kính, nên có nhờ anh lái xe tacxi viết hộ (Hiện nay không biết tên địa chỉ), nội dung do bà K đọc để viết, có sự chứng kiến của bà H và bà đã ký nhận nợ, hẹn đến ngày 30/4/2017 sẽ trả, đồng thời tự tay bà H viết vào phía dưới giấy nhận nợ có nội dung: “Sự việc trên tôi có vay chị K số tiền trên là có thật nếu có gì sai tôi chịu hoàn toàn trước pháp luật”. Đến hạn trả nợ mặc dù bà K đã đòi nhiều lần nhưng bà H vẫn không trả nên bà K làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Hoàng Thị H phải trả cho bà K 110.000.000 đồng tiền gốc và lãi suất theo thoả thuận của số tiền 40.000.000 đồng tính từ 01/8/2013 cho đến khi kết thúc vụ án.

Tại phiên tòa sơ thẩm, chị Nguyễn Thị Kim L là người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xin rút một phần yêu cầu lãi suất từ 2,5%/tháng tính từ tháng 7 năm 2013 như yêu cầu khởi kiện ban đầu xuống còn 1,125%/tháng đối với số tiền 40.000.000 đồng kể từ ngày 01/8/2013.

Bị đơn bà Hoàng Thị H trình bày:

Bà H không thừa nhận có nợ bà Võ Thị Kim K số tiền 110.000.000 đồng như bà K trình bày. Bà thừa nhận chữ ký và chữ viết trong tờ giấy vay nợ ngày 22/01/2017 là của bà. Lý do bà ký vào tờ giấy vay nợ là do bà K thuê xã hội đen đến nhà ép bà ký vào giấy vay nợ, nhà bà chỉ có hai mẹ con, nên sợ quá phải ký, chứ thực tế bà không vay tiền của bà K.

Việc bà K cho rằng có cho bà H vay 40.000.000đ vào tháng 7/2013 và 70.000.000đ vào năm 2014 và bà H có thế chấp cho bà K 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 937485 là không có. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà H bị mất vào khoảng tháng 4/2016, sau đó bà H bà H làm đơn xin cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến ngày 29/11/2016, được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đăk Nông cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD 788753, thửa đất số 82, tờ bản đồ số 101, diện tích 250m2, đứng tên bà Hoàng Thị H.

Tại phiên tòa sơ thẩm bà H thừa nhận trước đây bà có nợ bà K số tiền 110.000.000 đồng, nhưng vào ngày 14/02/2012, bà đã trả cho bà K được 65.000.000đ, đến ngày 05/02/2013, bà đã trả cho bà K số tiền 40.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản, tổng cộng số tiền đã trả là 105.000.000đ, hiện nay chỉ còn nợ bà K 5.000.000đ.

Do đó, bà không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà K.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2020/DS-ST ngày 23/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện T đã tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Kim K đối với bà Hoàng Thị H. Buộc bà Hoàng Thị H phải trả số tiền là 147.680.000 đồng cho bà Võ Thị Kim K. Trong đó số tiền gốc 110.000.000 đồng, tiền lãi là 37.680.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/8/2020 bà Hoàng Thị H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T.

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và cho rằng không nợ bà K số tiền 110.000.000đ như bà K khởi kiện. Bà thừa nhận trước đây bà có nợ bà K 110.000.000đ, nhưng vào ngày 14/02/2012, bà đã trả cho bà K được 65.000.000đ, đến ngày 05/02/2013, bà đã trả cho bà K số tiền 40.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản, tổng cộng số tiền đã trả là 105.000.000đ, hiện nay chỉ còn nợ bà K 5.000.000đ. Lý do bà ký vào tờ giấy vay nợ là do bà K thuê xã hội đen đến nhà ép bà ký vào giấy vay nợ, chứ thực tế bà không vay tiền của bà K.

Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn thừa nhận số tiền 105.000.000đ bà H trả cho bà K hai lần như bà H đã trình bày trên là đúng. Tuy nhiên, số tiền này bà H trả cho các khoản vay trước thời điểm tháng 7 năm 2013. Ngày 22/01/2017, viết giấy vay nợ là số tiền bà K cho bà H vay vào tháng 7/2013 và năm 2014, đây là khoản nợ khác bà H chưa trả, bà H còn hẹn đến ngày 30/4/2017 sẽ trả.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng tại phiên toà phúc thẩm người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn thừa nhận giấy vay nợ ngày 22/01/2017 là do người lái xe tacxi đi cùng với bà K viết, trong giấy vay nợ có rất nhiều lỗi sữa chữa, nguyên nhân do viết sai lỗi chính tả. Đối với hai chứng cứ bà H cung cấp tại phiên toà sơ thẩm, chứng minh bà H đã trả tiền cho bà K trong đó có 01 giấy do bà K trực tiếp viết và ký nhận số tiền 65.000.000đ trả vào ngày 14/02/2012 và 01 chứng từ giao dịch bà H chuyển khoản cho bà K vào ngày 05/02/2013 số tiền 40.000.000đ (BL 81, 82), nhưng không được cấp sơ thẩm xem xét là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tại phiên toà phúc thẩm nếu cấp phúc thẩm xem xét đánh giá đối với hai chứng cứ nêu trên để chấp nhận hoặc không chấp nhận thì sẽ mất quyền kháng cáo đối với các đương sự. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 308, Điều 310 của Bộ luật Tố tụng dân sự, chấp nhận kháng cáo của bà Hoàng Thị H, huỷ toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số: 03/2020/DS-ST ngày 23/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm xét xử lại theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông phát biểu ý kiến:

Đơn kháng cáo của bà Hoàng Thị H làm trong hạn luật định đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là đúng pháp luật.

Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự tại Toà án cấp phúc thẩm.

Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các chứng cứ có trong hồ sơ, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, xét thấy quá trình giải quyết bà H không thừa nhận có nợ bà K số tiền 110.000.000đ, bà H cho rằng việc ký vào giấy vay nợ ngày 22/01/2017 là do bà K thuê xã hội đen đến nhà ép bà ký, chứ thực tế bà không vay tiền của bà K. Tuy nhiên, bà H không có chứng cứ gì chứng minh việc ký vào giấy vay nợ là do bị ép buộc, do đó bà phải chịu hậu quả của việc không chứng minh được theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với hai chứng cứ bà H đã nộp tại phiên toà sơ thẩm có nội dung bà H đã trả cho bà K số tiền 65.000.000đ vào ngày 14/02/2012 và 40.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản cho bà K vào ngày 05/02/2013. Toà án cấp sơ thẩm nhận định chứng cứ trong vụ án do các đương sự cung cấp phải có trước khi Toà án mở phiên họp công khai chứng cứ và hoà giải theo quy định tại khoản 4 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự là không đúng với nội dung điều luật quy định. Do đó, việc Toà án cấp sơ thẩm không xem xét đánh giá đối với hai chứng cứ bà H giao nộp tại phiên toà là có phần thiếu sót, vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, nội dung chứng cứ bà H cung cấp thể hiện số tiền bà H trả cho bà K vào trước thời điểm bà H vay tiền và viết giấy vay nợ, nên không ảnh hưởng đến nội dung giải quyết vụ án. Vì vậy, không cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm để giải quyết lại, mà chỉ cần nêu lên để cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bà Hoàng Thị H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Xét yêu cầu kháng cáo của bà Hoàng Thị H, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX xét thấy:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà Hoàng Thị H làm trong thời hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm là đúng pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Chứng cứ nguyên đơn cung cấp là “giấy vay nợ” lập ngày 22/01/2017, có chữ ký và chữ viết của bà Hoàng Thị H với nội dung bà H có nợ bà K tổng số 110.000.000đ, hẹn đến ngày 30/4/2017 sẻ trả. Quá trình giải quyết nguyên đơn cho rằng “giấy vay nợ” trên thực chất là giấy chốt nợ cho khoản vay 40.000.000 đồng với lãi suất 2,5%/tháng từ tháng 7 năm 2013 cộng với số tiền 70.000.000 đồng mượn vào năm 2014, không tính lãi suất. Xét thấy, mặc dù bà H thừa nhận chữ viết và chữ ký dưới mục bên nợ A tại “giấy vay nợ” là chữ ký, chữ viết của bà đồng thời tự tay bà H viết vào phía dưới giấy nhận nợ có nội dung: “Sự việc trên tôi có vay chị K số tiền trên là có thật nếu có gì sai tôi chịu hoàn toàn trước pháp luật” (BL 37). Nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, bà H không thừa nhận có vay tiền của bà K, lý do bà ký vào giấy vay nợ là do bà K thuê xã hội đen đến nhà ép bà phải ký. Tuy nhiên, quá trình giải quyết cũng như tại phiên toà phúc thẩm bà H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì chứng minh cho lời khai của mình là có căn cứ. Sau khi bị ép ký vào giấy vay nợ thì bà H cũng không trình báo sự việc cho cơ quan Công an xã, huyện nơi bà H cư trú biết về nội dung này. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm giải quyết vụ án dân sự theo những chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 91 của Bộ luật Tố tụng dân sự và buộc bà H phải có nghĩa vụ trả cho bà K 110.000.000đ tiền gốc và lãi suất theo quy định tại Điều 476 của Bộ luật dân sự 2005 đối với số tiền 40.000.000đ tính từ ngày 01/8/2013 là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[2.2]. Tại phiên toà sơ thẩm, bà H thay đổi lời khai thừa nhận trước đây bà H có nợ bà K số tiền 110.000.000đ. Ngày 14/02/2012, bà đã trả cho bà K được 65.000.000đ, đến ngày 05/02/2013, bà H trả tiếp 40.000.000đ bằng hình thức chuyển khoản, hiện nay chỉ còn nợ bà K 5.000.000đ, đồng thời bà H cung cấp hai chứng cứ về việc trả tiền, nhưng không được Hội đồng xét xử sơ thẩm xem xét. Xét thấy, tại khoản 4 Điều 96 của của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định:

4. “… Trường hợp sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, đương sự mới cung cấp, giao nộp tài liệu, chứng cứ mà Tòa án đã yêu cầu giao nộp nhưng đương sự không giao nộp được vì có lý do chính đáng thì đương sự phải chứng minh lý do của việc chậm giao nộp tài liệu, chứng cứ đó. Đối với tài liệu, chứng cứ mà trước đó Tòa án không yêu cầu đương sự giao nộp hoặc tài liệu, chứng cứ mà đương sự không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục sơ thẩm thì đương sự có quyền giao nộp, trình bày tại phiên tòa sơ thẩm, phiên họp giải quyết việc dân sự hoặc các giai đoạn tố tụng tiếp theo của việc giải quyết vụ việc dân sự”.

Như vậy, việc bà H giao nộp chứng cứ tại phiên toà sơ thẩm là phù hợp, cấp sơ thẩm không xem xét đánh giá chứng cứ là vi phạm khoản 4 Điều 96 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tuy nhiên, qua xem xét hai chứng cứ bà H cung cấp thấy rằng số tiền bà H trả cho bà K vào ngày 14/02/2012 và ngày 05/02/2013 tổng số 105.000.000đ. Số tiền này bà H trả trước thời điểm viết giấy vay nợ ngày 22/01/2017, nội dung giấy vay nợ thể hiện rõ thời điểm vay 40.000.000đ từ tháng 7/2013 và 70.000.000đ từ năm 2014, đều sau thời điểm bà H trả tiền cho bà K. Mặt khác, lời khai của bà K cũng xác định trước đây bà K có cho bà H vay tiền rất nhiều lần, cụ thể từng lần vay thì bà không nhớ, số tiền cho vay từ 20.000.000đ đến 70.000.000đ, có lần vay viết giấy và cũng có những lần vay không viết giấy, nhưng bà H đều trả nợ đầy đủ. Số tiền bà H trả vào ngày 14/02/2012 và ngày 05/02/2013 tổng số 105.000.000đ là bà H trả cho các khoản nợ vay trước thời điểm tháng 7/2013. Do đó, mặc dù cấp sơ thẩm có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng cũng không làm ảnh hưởng đến nội dung vụ án, nên cần nêu lên để rút kinh nghiệm, không cần thiết phải huỷ bản án sơ thẩm để giải quyết lại.

[3]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk Nông tại phiên toà là có căn cứ chấp nhận, quan điểm đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là không có căn cứ chấp nhận.

[4]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng có của bà Hoàng Thị H. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 03/2020/DS-ST ngày 23/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện T.

[5]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bà Hoàng Thị H phải chịu 300.000 đồng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 91, khoản 4 Điều 96, Điều 147, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 471, Điều 474, Điều 476 của Bộ luật dân sự 2005; Điều 357 Bộ luật dân sự 2015; khoản 2 Điều 26 và khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo bà Hoàng Thị H. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 03/2020/DS-ST ngày 23/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đắk Nông.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Kim K đối với bà Hoàng Thị H. Buộc bà Hoàng Thị H phải có nghĩa vụ trả cho bà Võ Thị Kim K số tiền 147.680.000 đồng (Một trăm bốn mươi bảy triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng).

Trong đó tiền gốc là 110.000.000 đồng (Một trăm mười triệu đồng), tiền lãi là 37.680.000 đồng (Ba mươi bảy triệu sáu trăm tám mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự 2015.

2. Về án phí:

2.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Hoàng Thị H phải chịu 7.384.000 đồng (Bảy triệu ba trăm tám mươi tư nghìn đồng). Trả lại cho bà Võ Thị Kim K 3.665.000 đồng (Ba triệu sáu trăm sáu mươi lăm nghìn đồng) tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm bà K đã nộp, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000789, ngày 16/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đăk Nông.

2.2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hoàng Thị H phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm bà H đã nộp theo biên số 0001214 ngày 21/8/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Đức, tỉnh Đăk Nông.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2020/DS-PT ngày 24/12/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:61/2020/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Nông
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 24/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về